• Nghệ thuật > Văn học

CON NGƯỜI NAM BỘ TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ

Ở xã hội hậu hiện đại, “cái ngã của con người chập chờn đâu đó ở ngoại biên thế giới, chứ nào phải chiếm lĩnh trung tâm như ảo tưởng của mình” (1). Con người bị gạt ra ngoài cuộc sống của gia đình, cộng đồng, “bị đá văng ra khỏi thế giới” (Kafka). Lo âu vì bị đẩy ra ngoại biên, con người Nam Bộ trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư cố gắng bằng mọi phương cách hòa nhập vào cộng đồng để trở thành trung tâm, là trung tâm. Cố gắng ấy giống như một cú lội ngược dòng, lạc hướng với quy luật phát triển của xã hội, đặc thù của văn chương hậu hiện đại: phi trung tâm, giải tôi…

CHẤT TIỂU THUYẾT TRONG HỒI KÝ THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Khép lại một chặng đường văn học kháng chiến ngót 30 năm với bao vinh quang, trải nghiệm, văn học Việt Nam chuyển mình bước vào giai đoạn mới đầy thử thách với những vận hội mới. Văn học 1945-1975 ghi nhận sự lên ngôi của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, tạo nên một chủ âm ngợi ca hào sảng, vang vọng trong mọi tác phẩm. Sau năm 1975, đặc biệt là từ giai đoạn đổi mới 1986, chất sử thi đã nhường chỗ cho chất tiểu thuyết. Tư duy tiểu thuyết như một công cụ soi chiếu mọi vấn đề xã hội, bề sâu số phận con người. Chất tiểu thuyết đậm đặc chi phối nội dung và hình thức của hồi ký, tạo nên sự biến đổi ở mọi phương diện từ tư duy sáng tác đến cấu trúc thể loại, từ nghệ thuật xây dựng nhân vật đến điểm nhìn, giọng điệu trần thuật...

THỂ VÃN HAI, VÃN BA, TỪ ĐỒNG DAO ĐẾN THƠ THIẾU NHI

Với nỗ lực đưa thơ về gần với thế giới tuổi thơ hồn nhiên, trong trẻo, thơ thiếu nhi Việt Nam hiện đại tìm về ngọn nguồn đồng dao như một tất yếu. Bằng sự nhạy bén, tấm lòng tâm huyết, các tác giả đã khẳng định một trong những nguyên tắc quan trọng khi sáng tác thơ cho thiếu nhi là sáng tác dựa trên cơ sở tiếp thu tinh túy của những bài đồng dao dân gian để thơ cho các em tràn đầy sự hồn nhiên, mỗi bài thơ giống như một trò vui khiến các em “không chán, không sợ nó” (Trần Quốc Toàn). Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy thơ thiếu nhi chịu ảnh hưởng từ phương thức tư duy đồng dao trên nhiều phương diện, trong đó có sự vận dụng sáng tạo thể vãn hai, vãn ba.

DIỄN NGÔN ÂM NHẠC TRONG TIỂU THUYẾT CỦA I. TURGENEV

Phong cách tiểu thuyết của I. Turgenev được thiết lập trên một tỉ lệ xác định giữa hiện thực và lãng mạn, giữa nội dung khách quan mang hơi thở và sức ép của thời đại với lời kể tràn đầy cảm hứng chủ quan của người kể chuyện. Sự hiện hữu thường trực của cái lãng mạn trên các bình diện cấu trúc tác phẩm làm nên điểm khác biệt của tiểu thuyết Turgenev. Đối tượng khảo sát của bài viết là diễn ngôn âm nhạc trong tiểu thuyết của nhà văn như một trong nhiều phương thức biểu hiện cái lãng mạn, hiển lộ qua những đặc trưng truyện kể, những hình tượng âm nhạc với vai trò của một thủ pháp kết cấu.

CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VĂN XUÔI VIỆT NAM HẬU HIỆN ĐẠI

Thơ văn xuôi, một thể thơ lưỡng tính giữa thơ trữ tình và văn xuôi tự sự, xuất hiện ở Việt Nam từ phong trào Thơ mới. Ra đời và phát triển đến nay đã gần một thế kỷ, tuy thành tựu không nhiều như các thể thơ khác vì nó “ít được phổ cập trong tâm lý người sáng tác cũng như người tiếp nhận” (1), song thật sự thể thơ này cũng đã theo sát diễn trình của nền thơ dân tộc, có mặt trong từng bước chuyển hệ hình, thậm chí có những lúc nó còn đứng ở đầu sóng ngọn gió như với Tình già của Phan Khôi, những sáng tác thơ văn xuôi của Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng, Nguyễn Quang Thiều, Vi Thùy Linh… Từ cuối TK XX đến nay, thơ văn xuôi Việt Nam đã thật sự khởi sắc. Nó đã đồng hành thường xuyên cùng những cây bút có khuynh hướng cách tân mạnh mẽ, trong đó bao gồm cả những thể nghiệm thuộc hệ hình sáng tác hậu hiện đại.

NHÂN VẬT NGƯỜI LÍNH TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

Trong tác phẩm văn học, nhân vật chuyên chở chủ đề tư tưởng là nơi nhà văn ký thác quan niệm nghệ thuật, khuynh hướng sáng tác. Với truyện ngắn vì hạn chế về dung lượng, nhân vật được dồn nén trong lát cắt cuộc đời nên càng có vị trí quan trọng, quyết định sự thành công của truyện. Truyện ngắn Việt Nam đương đại về chiến tranh đã có những bước chuyển mình trên mọi phương diện. Nhân vật cũng dần được bổ sung thêm những kiểu loại khác, mang những suy tư, trăn trở, thể nghiệm của nhà văn sau chiến tranh. Bài viết phác thảo một số loại hình nhân vật người lính, xuất hiện nhiều trong truyện ngắn chiến tranh gắn với sự thay đổi về tư duy nghệ thuật từ sau giải phóng đến nay.

YẾU TỐ VÔ THỨC NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG

Với sự ra đời của phân tâm học, nhân loại nhận thức được một thế giới khác tồn tại bí mật nhưng vô cùng phức tạp, hấp dẫn. Cho phép con người thám hiểm chiều sâu bản thể, từ đó bổ sung những góc nhìn mới về hiện thực đời sống. Tương tác với nhu cầu đổi mới của nhà văn hiện đại, phân tâm học trong văn học Việt Nam đã phát huy hiệu ứng thẩm mỹ thông qua các phương diện nghệ thuật. Trong dòng chảy tiểu thuyết đương đại, Nguyễn Bình Phương được coi là một trong những nhà văn thành công khi vận dụng phân tâm học để xây dựng nhân vật, tạo ra những chiều kích mới.

NÉT TƯƠNG ĐỒNG GIỮA BỐ THÍ BA LA MẬT VÀ BHAKTI YOGA

Khó có ai sống mà không cần đến tình thương, sự quan tâm của người khác. Một nụ cười, một lời an ủi trong nghiệt cảnh sẽ là chiếc phao cứu sinh cho một phận người. Và Phật giáo đã có mặt trong cuộc đời như là một điểm tựa tinh thần. Tư tưởng từ bi vô ngã qua hạnh Bố thí Ba la mật đã thể hiện mối tương quan mật thiết giữa đời và đạo. Còn với Hindu giáo, Bhakti Yoga là một trong những con đường giải thoát được người dân Ấn mộ đạo coi trọng trong hành trình hoàn thiện tâm linh. Sự dâng hiến tình yêu một cách thành kính và tuyệt đối cho thượng đế của Bhakti Yoga đã được nhà thơ Ấn Độ R.Tagore kế thừa sáng tạo trong các hình tượng thơ ca. Như vậy, lòng từ bi nhân ái (Phật giáo) và Bhakti Yoga (Hindu giáo) qua việc khảo sát kinh Jātaka và thơ R.Tagore đã cho thấy những nét tương đồng giữa tư tưởng của hai tôn giáo lớn này.

MÔ THỨC TỰ SỰ ĐẶC THÙ TRONG TRUYỆN TRUYỀN KỲ THẾ KỶ XVIII-XIX

Cốt truyện, thành tố cốt lõi của một văn bản tự sự, không chỉ là khung diễn tiến của các sự kiện theo trật tự thời gian mà còn là thành quả từ quá trình chiếm lĩnh nhận thức bản chất cuộc sống của nhà văn. Chọn nội dung nào để phản ánh, kết nối các sự kiện theo cách thức ra sao để vừa chuyển tải được câu chuyện, vừa cuốn hút người đọc đều nằm trong chủ đích của người sáng tác. Nhìn từ kết cấu sự kiện, có bốn dạng thức cốt truyện nổi bật trong truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại: cốt truyện liền mạch, cốt truyện lồng ghép, cốt truyện lắp ghép và cốt truyện hồi cố. Trong đó, cốt truyện lắp ghép là mô thức tự sự đặc thù, chiếm vị trí quan trọng trong các truyện truyền kỳ Việt Nam TK XVIII-XIX.

TÍNH BIỂU TƯỢNG - MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

Thế giới đang nói bằng biểu tượng. Đó là khẳng định của Jean Chevalier trong lời mở đầu cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới. Biểu tượng hút vào trong nó tất cả các ngành khoa học nghệ thuật, trong đó có văn học, như là cách để mã hóa thế giới theo một ý tưởng nhất định. Nhất là với thế giới hiện đại, thế giới mang đặc tính “chân lý tuyệt đối duy nhất phân rã thành mớ chân lý trái ngược” như nhận xét của M.Kundera thì việc biểu đạt nó bằng hệ thống biểu tượng sẽ là cách để nhà văn đối thoại với độc giả. Trong thế giới không còn chân lý tuyệt đối, nhà văn không phải là người tìm ra câu trả lời cho hiện thực được phản ánh, cái quyền ấy được trao cho độc giả.