GS, NGƯT Đỗ Đức Hiểu sinh ngày 16-9-1924 tại xã Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội. Trong đội ngũ những người thày đầu tiên có công xây dựng ngành Ngữ văn tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, từng có thời kỳ được gọi là Văn Khoa, Tổng hợp, GS Đỗ Đức Hiểu thuộc thế hệ thứ hai, sau thế hệ các học giả hàng đầu của ngành Ngữ văn gồm: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Cao Xuân Huy, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Xuân Nhị... Nhắc đến thế hệ các nhà giáo, nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giảng dạy, nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và ngữ văn nói riêng lúc bấy giờ, tại cái nôi Văn khoa - Tổng hợp, hẳn sẽ còn lâu lắm, chúng ta mới có đủ “giấy bút” để nói được hết công lao của họ. GS Đỗ Đức Hiểu cũng thuộc số những tên tuổi “đáng giá” đó.
GS Đỗ Đức Hiểu (1924 - 2003) - Ảnh: tác giả cung cấp
Tôi biết GS Đỗ Đức Hiểu có phần hơi muộn, phải đến đầu những năm 70 của thế kỷ trước, nhưng có may mắn được gần gũi, học tập, làm việc, chia sẻ tâm sự và nhờ thế mà hiểu được ít nhiều về ông. Quả thật không khó có thể hình dung lại ông ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ và cả đến phút cuối cùng phải vĩnh viễn xa ông. Ở khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội, ông là người “đầy cá tính”. Gần như tất cả các thế hệ đồng nghiệp và học trò của ông đều dễ dàng hình dung ra một Đỗ Đức Hiểu thế này: gầy gò, xanh xao, đôi khi có cảm giác “thiếu sức sống”, ngồi gần nói chuyện với ai thì chỉ “thẽ thọt”, nhẹ nhàng, nhưng khi giảng bài thì giọng ông âm vang như sóng biển ngày lộng gió. Sức làm việc của GS Đỗ Đức Hiểu thật sự phi thường. Khó ai có thể hình dung nổi, một người bị cắt tới hai phần ba dạ dày ngay từ tuổi thanh niên, hình hài chẳng khác nào một cây sậy, vậy mà vẫn đạp xe đều đặn hằng ngày, dù mưa hay nắng, vẫn không hề sai giờ, từ 26 phố Hàng Bài vào ký túc xá Mễ Trì, nơi đóng đô của hai khoa Văn, Sử những năm 70, khi còn là Phó Chủ nhiệm khoa Ngữ văn; đêm về, lại “còng lưng” xuống những trang sách (do mắt kém, phải đeo kính cận trên 5 điôp), để cho ra đời hàng ngàn trang viết âm vang, sáng tạo cho nhiều thế hệ học trò. Những năm cuối đời, do bệnh tật, giữa những cơn đau, tôi biết, GS Đỗ Đức Hiểu vẫn đọc, làm việc, mặc dù, dường như đã đến lúc sức khoẻ không cho phép ông còn đủ minh mẫn để viết ra những ý tưởng sáng tạo như những vỉa trầm tích có sẵn trong đầu mình. Sự sáng tạo dù có mạnh mẽ đến mấy dường như cũng bất lực khi người ta không còn đủ sức. Ông không phải là trường hợp ngoại lệ…
Đúng ra, nếu không có sự biến thiên của cuộc đời, cứ theo vào sự lựa chọn ban đầu, lẽ ra GS Đỗ Đức Hiểu phải trở thành một luật sư, hay nếu khác hơn một chút, ông đã là một công chức hành nghề luật. Đỗ tú tài năm 1943, ông vào học ban luật, cùng thế hệ với nhà văn Nguyễn Đình Thi, lúc đó học triết. Khá lâu sau này, cả hai, cuối cùng, cũng lựa chọn con đường văn chương. Một bên, Đỗ Đức Hiểu chọn giảng dạy, nghiên cứu; và bên kia, Nguyễn Đình Thi, chọn viết sáng tạo. Cả hai đều giống nhau là không đi đến tận cùng sự lựa chọn ban đầu của mình. Kháng chiến bùng nổ, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, hai ông rời Trường Pháp lên chiến khu. Với Nguyễn Đình Thi, hình như một chút “máu nghề nghiệp” ban đầu vẫn còn theo đuổi ông cho đến tận những ngày đầu tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông đã viết khá nhiều công trình nghiên cứu triết học in trên một số báo, tạp chí lúc bấy giờ, còn Đỗ Đức Hiểu, sự lựa chọn ban đầu muốn trở thành luật sư. Ông giống nhà hài kịch Pháp TK XVII - Molière, người mà ông dành rất nhiều tâm huyết trong bộ giáo trình Lịch sử văn học Pháp, cũng từ bỏ lựa chọn ban đầu là nghề trạng sư, để dấn thân vào con đường nghệ thuật. Với Đỗ Đức Hiểu, một chút dấu vết nghề nghiệp ban đầu có chăng chỉ còn được bộc lộ phần nào qua cách ông trình bày hay diễn thuyết một vấn đề gì mà ông cho là tâm đắc; hay khi phải bộc lộ chính kiến phản bác một vấn đề gì mà ông không bằng lòng. Lúc đó, những lý lẽ của ông thật vô cùng sắc bén. Văn chương dường như đã là một sự “lựa chọn định mệnh” với ông. Chính xác, từ ngay sau năm 1945, sau khi rời giảng đường Trường Luật, 19 Lê Thánh Tông, cho đến tận những ngày cuối đời, ông chỉ “đau đáu” duy nhất với một con đường định sẵn - văn chương khi là một nhà giáo gõ đầu trẻ ở Trường Phổ thông Trung học Phú Thọ, rồi Trường Lương Ngọc Quyến Thái Nguyên; lúc là Giáo sư ở khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội; có khi trong công việc một giáo sư Tây học với đúng nghĩa: dạy tiếng Pháp tận bên Nam Kinh, Trung Quốc; và lúc khác nữa, là công chức Ban Tu thư của Bộ GDĐT, tổ chức biên soạn sách giáo khoa bậc phổ thông. Dù “viễn du” trong nhiều lĩnh vực khác nhau, tất cả mọi công việc của ông vẫn đều gắn bó “duyên nợ” cho đến khi trút hơi thở cuối cùng với văn chương. Có lẽ vì thế, về sau này, ta sẽ thấy một Đỗ Đức Hiểu luôn “quảng bác” trong sự nghiệp nghiên cứu văn học của mình.
Từ trái sang: GS Đỗ Đức Hiểu, NGND Lê Hồng Sâm, Nhà nghiên cứu Trần Hinh - Nguồn: Đào Duy Hiệp
Thật khó để có thể xếp ông chỉ riêng vào một lĩnh vực chật hẹp nào đó. Chẳng hạn, nếu cho rằng ông là một chuyên gia có hạng về văn học phương Tây. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Bởi lẽ, bên cạnh những trang viết sắc sảo về mảng văn học này, ta còn bắt gặp không ít những trang viết tinh tế, sâu sắc của ông về văn học Việt Nam; thậm chí nhiều người cho rằng, ông phải là một chuyên gia về văn học Việt Nam mới đúng. Đành là như vậy, đã có thời kỳ, từ 1955-1958, ông tham gia viết sách giáo khoa tại Ban Tu thư, Bộ GDĐT, đồng thời cũng là thành viên của nhóm Lê Quý Đôn, những nhà Tây học và Việt Nam học cự phách một thời, gồm Vũ Đình Liên, Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn... dịch Những người khốn khổ của nhà lãng mạn Pháp TK XIX trong một thứ tiếng Việt thấm đẫm tinh thần Hugo, mà cũng rất Việt Nam. Đọc những trang viết của Đỗ Đức Hiểu, có lúc, người ta nhận ra trong đó kiến thức của một bậc hàn lâm, bởi lẽ, từ cách đặt vấn đề, lý giải vấn đề đến dẫn giải tư liệu, phân tích văn bản; lại có khi, ông viết những trang văn réo rắt, trong trẻo như một “cậu học trò” phổ thông.
Nhà giáo, người đồng nghiệp gần gũi và hiểu ông nhất trong nhiều năm, NGƯT Lê Hồng Sâm, trong một bài viết ngắn sau khi ông qua đời, đã có một nhận xét rất chính xác rằng, ở ông: “có lắm chất hugolien, rõ nhất là những tương phản: nhà Tây học và ông đồ, rụt rè và can đảm, tuổi già và suy nghĩ trẻ trung...”. Quả là phải rất hiểu ông mới rút ra được nhận xét tinh tế đó. Và đó chưa phải đã hết, tôi cho rằng, điều quan trọng hơn, cần phải làm rõ phẩm chất con người và công việc của ông như thế này: chính nhờ những đối nghịch, mà ông đồng thời cũng luôn là người không ngừng đổi mới. Đổi mới và sáng tạo là hai mặt thống nhất trong toàn bộ sự nghiệp của ông. Nếu nói đúng như các nhà triết học, sự vật chỉ có thể phát triển khi chứa đựng trong lòng nó những mặt đối lập. Soi sáng toàn bộ sự nghiệp của GS Đỗ Đức Hiểu, chúng ta sẽ hiểu được rõ hơn điều đó.
Có thể khẳng định, Đỗ Đức Hiểu bắt đầu đến với văn chương chính bằng sự say mê và trải nghiệm từ nền văn học dân tộc - văn học Việt Nam. Những năm cuối đời, trong tâm sự với nhà phê bình Trung Đức, ông viết: “sau khi đã “viễn du” sang “tận trời Tây” lang thang bên Trường Giang, bên sông Tiền Đường, ngồi bên Tây Hồ, Tô Châu, Bắc Kinh, Nam Kinh, Thượng Hải (thời gian tôi sang Đại học Tổng hợp Nam Kinh, dạy tiếng Pháp). Có khi tôi lang thang bên bờ sông Seine, trong vườn Luxembourg, ngồi ở ghế dưới tượng George Sand, có khi ngắm nhìn Mona Lisa ở Louvre, Eiffel, Nhà thờ Đức Bà, Điện Panthéon (thời kỳ tôi sang trường Đại học Paris VII, nghiên cứu phương pháp viết lịch sử văn học Pháp)...” (1), ông lại trở về với mình, với những gì thân quen trong vườn văn chương dân tộc, để viết những điều tâm đắc, thứ văn chương tiếng Việt thân yêu nhất của mình. Với văn học Việt Nam, thực ra, ông đã say mê và gắn bó từ bé. Say mê văn học Pháp, nhưng Đỗ Đức Hiểu không bắt đầu sự nghiệp của mình bằng nền văn chương này. Có lẽ, điều đó hoàn toàn dễ hiểu bởi ông không được đào tạo thật sự chính quy. Ban đầu ông vốn là sinh viên luật. Mặc dù sự nghiệp giảng dạy, nghiên cứu văn học Pháp, gắn bó với ông gần năm chục năm trời (thành tựu quan trọng của ông cũng là ở mảng văn học này), nhưng phải đến năm 1958, khi rời Ban Tu thư về khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp, vốn liếng về văn học Pháp, như ông nói, là do “tự đào tạo”. Trong khi đó, vốn kiến thức về văn học Việt Nam, ông đã tích lũy từ rất lâu.
GS Đặng Thị Hạnh, một đồng nghiệp khác cũng rất gần gũi và hiểu bậc “đàn anh” của mình, đã kể lại, lần đầu tiên gặp và dự giờ giảng của GS Đỗ Đức Hiểu tại trường Lương Ngọc Quyến, Thái Nguyên, như sau: “Khi vừa chân ướt chân ráo về trường, tôi đã được dự một giờ dạy văn của anh Đỗ Đức Hiểu. Sau này, tôi cùng ở tổ bộ môn với anh nhiều năm, nhưng năm tháng trôi qua, từ lần gặp đầu tiên cho đến mấy chục năm sau, lúc anh ra đi, về diện mạo và tính cách, tôi thấy, hầu như anh không hề thay đổi. Có thể nói về anh bằng cách mượn câu thơ Tố Hữu đã miêu tả một cô gái anh hùng nổi tiếng (anh “có tuổi hay không có tuổi”). Vào lớp cùng đồng nghiệp, ngồi xuống bàn cuối, tôi thấy một người đàn ông cao và gày nhom, mắt hay ngước lên trời, vẻ đầy cảm hứng. Nhưng khi anh bắt đầu giảng bằng cái giọng the thé (nhất là khi anh bốc lên) - điều đáng ngạc nhiên là giọng đó và vẻ đó không có gì nực cười - cả lớp im phăng phắc. Tôi bị ấn tượng mạnh vì bước chuyển anh tiến hành từ ngôn từ nghệ thuật sang liên tưởng khái quát. Vào tuổi tôi lúc đó, đọc tiểu thuyết hay thơ, bao giờ tôi cũng chỉ có cảm nhận tức khắc về vẻ đẹp của ngôn từ và của nhân vật hay tình huống. Nghe anh Hiểu giảng, tôi bỗng nhận ra: Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương không chỉ là ánh hoàng hôn trên một phong cảnh mà còn là ẩn dụ về hoàng hôn của một thời đại. Tôi cũng hiểu cấu trúc thật quan trọng: tập hợp những từ có phần sáo mòn theo một kiểu nào đấy (ở đây là rất tỉnh lược) vẫn có thể dẫn đến những hiệu quả thật độc đáo. Đây chắc chắn là lần đầu tiên tôi bước chân vào rìa mép địa giới của cái được gọi là thi pháp...” (2). Những kỷ niệm về GS Đỗ Đức Hiểu của Đặng Thị Hạnh đã giúp ta hình dung được phần nào chí hướng khoa học của ông ngay từ những ngày đầu. Lúc đó, Đỗ Đức Hiểu, mới chỉ là một ông giáo dạy văn phổ thông. Những bài giảng văn đầu tiên lúc ấy về sau này được ông viết lại và cho in trong công trình Đổi mới phê bình văn học, năm 1993. Một cách chính xác hơn, bài viết Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương, trước đó một chút, ông đã công bố trên Tạp chí Văn học (số 5, năm 1990), khiến giới nghiên cứu văn học Việt Nam lúc ấy trầm trồ.
Trước đó, vì chưa hiểu hết ông, người ta chỉ hình dung về một Đỗ Đức Hiểu với biệt danh một trong những chuyên gia hàng đầu về văn học phương Tây (có lẽ vì ông chính thức giảng dạy văn học phương Tây ngay từ những ngày đầu trở về khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội). Ông dịch Molière, Hugo, Balzac, Bernadin de Saint-Pierre và nhiều tác giả khác; biên soạn giáo trình Văn học Phục hưng Phương Tây in rô-nê-ô cùng với GS Nguyễn Mạnh Tường, viết chung giáo trình Văn học phương Tây (1963) với nhóm giảng viên Trường Đại học Sư phạm, cùng đồng nghiệp Nguyễn Văn Khỏa. Ứng dụng thi pháp học để phân tích thế giới thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, như Đỗ Đức Hiểu đã làm, lúc ấy là một sự “lạ”. Tuy, trước đó, những công trình ứng dụng thi pháp học của Trần Đình Sử, Lê Đình Kỵ, Phan Ngọc, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Đăng Mạnh... trong nghiên cứu văn học Việt Nam đã từng xuất hiện. Thậm chí, một cách công bằng, ngay từ năm 1952, nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai, cũng đã từng vận dụng thành công thao tác phân tích thi pháp học trong trường hợp Giảng văn Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Một số công trình khác nữa được dịch từ nước ngoài: Rabelais và nền văn hóa dân gian trung thế kỷ, Những vấn đề thi pháp tiểu thuyết của Barkhtin, Hình thái học của truyện cổ tích của Propp… đã xuất hiện tại phòng Tư liệu khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước. Nghĩa là, việc vận dụng thi pháp trong nghiên cứu văn học ở nước ta, chí ít từ đầu những năm 60 đã không còn là điều quá mới mẻ. Mặc dù vậy, trường hợp Đỗ Đức Hiểu vẫn cứ gây cho người đọc đôi chút cảm giác lạ.
Thi pháp hay thi pháp học ở nước ta có thời kỳ rộ lên như một thứ mốt thời thượng (à la mode) tới mức PGS Đặng Thị Hạnh khi viết chuyên luận Tiểu thuyết Hugo, đã tâm sự với tôi rằng, bà rất ngại đặt phía trước đầu đề cuốn chuyên luận của mình hai chữ thi pháp. Tôi không nghĩ GS Đỗ Đức Hiểu là người quá “kỹ tính” hay ưa chạy theo mốt. Nhưng chắc chắn, ở bất cứ thời điểm nào, ông cũng yêu sự đổi mới, sáng tạo. Với Đỗ Đức Hiểu, đổi mới, sáng tạo là lẽ sống. Trong nghiên cứu văn học, dường như ông không bao giờ chịu đứng yên. Không chỉ đổi mới những gì đã có của người khác mà ông còn không ngừng đổi mới cả bản thân mình. Thật ra, những vấn đề về thi pháp hay thi pháp hiện đại về sau này, học trò, vì yêu quý thày, muốn lưu giữ lại ở ông một chút tính chất đổi mới từ hai công trình đã in trước đó (Đổi mới Phê bình văn học, 1993; Đổi mới đọc và bình văn, 1999) là Thi pháp hiện đại (2000). Thế nhưng là người đủ tri thức và bản lĩnh, Đỗ Đức Hiểu không “ngây thơ” nghĩ rằng thi pháp học là một thứ “ngáo ộp”, có thể thay đổi được tất cả mọi thứ trên đời, sử dụng nó có thể thay thế được lao động sáng tạo. Với ông, thi pháp học “là một thành tựu lớn của khoa nghiên cứu văn học thế kỷ XX”. Là người đủ vốn ngoại ngữ để đọc lý luận từ trong nguyên bản, ông không bao giờ lợi dụng “thế mạnh” đó để làm phức tạp thêm một hướng nghiên cứu mới, tuy không lạ, nhưng ở thời điểm ấy, còn chưa quen thuộc với nhiều người. Phần viết về lý thuyết thi pháp của ông có ưu điểm rất lớn là dễ hiểu, dễ tiếp nhận. Ông định nghĩa: “theo cách hiểu thông thường hiện nay trên thế giới, thi pháp, là phương pháp tiếp cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học, từ các hình thức biểu hiện bằng ngôn từ nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa triết học, đạo đức học, lịch sử, xã hội học... cấp độ nghiên cứu thi pháp học các hình thức nghệ thuật (kết cấu, âm điệu, nhịp câu, đối thoại, thời gian, không gian, cú pháp...) yêu cầu đọc tác phẩm như một chỉnh thể, ở đó, các yếu tố ngôn từ liên kết chặt chẽ với nhau, hợp thành một hệ thống, để biểu đạt ý tưởng, tình cảm, tư duy, nhân sinh quan... tức là cái đẹp của thế giới con người (các phương pháp “truyền thống” trên thế giới, tức là trước đại chiến II - coi nhẹ hoặc bỏ qua chất liệu của văn chương là ngôn từ, nên mắc một số sai lầm, có khi nghiêm trọng và không khai thác được những ý nghĩa đa dạng của tác phẩm). Điểm xuất phát của thi pháp là coi tác phẩm văn học là văn bản ngôn từ...” (3). Đỗ Đức Hiểu đã tinh tế trong việc biến một cái khó hiểu thành một điều dễ hiểu. Chỉ cần đọc mấy dòng định nghĩa của ông, chúng ta đã nhận ra rằng, thi pháp đâu phải là cái gì quá xa lạ, bí hiểm. Nó có thể là chính phương pháp chúng ta đã từng làm bấy lâu nay. Thế nhưng, không phải không từng có những công trình thi pháp học lúc bấy giờ được công bố khiến không ít người đọc hoang mang. Về điểm này, tôi cho rằng, Đỗ Đức Hiểu tuy không phải là một nhà lý thuyết sâu sắc, nhưng chắc chắn ông lại là một nhà ứng dụng tài tình. Ông hiểu rằng, sự đọc của con người là vô bờ, nếu không tìm được “chiếc gậy thần”, người ta không bao giờ có thể đi được tới bến. Tìm đến với nguồn tri thức nhân loại, Đỗ Đức Hiểu xót xa khi thấy tầm vóc tí hon của bản thân mình, bên cạnh những Genette, Jakobson, Aueurbach, Roland Barthes... những nhà phê bình có những hiểu biết mênh mông, bát ngát, phê bình một nhà thơ Nga cổ bằng tiếng Slave cổ, phê bình Baudelaire bằng tiếng Pháp, nhà văn Woolf bằng tiếng Anh, rồi Schiller bằng tiếng Đức...
(Còn nữa)
____________________
1. Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, những vấn đề lý luận và ứng dụng, Nxb Giáo dục, 2012, tr.683.
2. Đặng Thị Hạnh, Cô bé nhìn mưa, Nxb Phụ Nữ, 2022, tr.194-195.
3. Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, 2000, tr.10.
TS TRẦN HINH:
Nguồn: Tạp chí VHNT số 584, tháng 10-2024