• Nghệ thuật > Văn học

Nhân vật lạc loài trong truyện cổ Andersen

Những câu chuyện cổ tích thầm thì của Andersen đã từ vương quốc Đan Mạch bước vào cuộc viễn du vĩnh hằng trong tâm hồn nhân loại. Những nhân vật của ông dẫn chúng ta lạc vào thế giới cổ tích, lay thức người đọc trở về khu vườn trần thế. Đó là sức hấp dẫn riêng biệt mà chỉ người kể chuyện cổ tích thiên tài Andersen mới làm nổi. Cuộc đời rộng lớn với biết bao gương mặt, bao thân phận người như được Andersen thu vào trong thế giới nghệ thuật của mình. Ông từng nói: “Tôi tựa hồ như nước, mọi điều chuyển động trong tôi, mọi điều phản chiếu trong tôi”. Trong đó, những thân phận lạc loài xuất hiện đầy ám ảnh, dường như là niềm đau nhân sinh sau bóng hình cổ tích, chưng cất từ nỗi cô đơn của chính ông và con người hiện tại.

Loại hình tác giả nhà nho tân học trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX

Văn học Việt Nam đầu TK XX có một vị trí rất đặc biệt trong tiến trình văn học lịch sử nước nhà. Đây là giai đoạn văn học đánh dấu bước ngoặt mới văn học chuyển tiếp từ văn học trung đại sang cận - hiện đại. Trong quá trình chuyển tiếp của lực lượng, quan niệm, phương pháp sáng tác và công chúng văn học, lực lượng sáng tác giữ vị trí đầu tiên và quyết định đánh dấu sự chuyển mình của văn học. Trong lực lượng sáng tác của bối cảnh ấy, nhà nho tân học nổi lên là một trong những nhân tố then chốt nhất. Ở bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày những nét khái quát về loại hình tác giả và một số tác giả tiêu biểu của loại hình nhà nho tân học trong văn học Việt Nam đầu TK XX như: Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, Tản Đà.

Jataka trong đời sống văn hóa một số nước Đông Nam Á lục địa

Ở Ấn Độ, đạo Phật ra đời từ TK VI trước CN, người sáng lập là thái tử Siddharta Gautama (hiệu Tất Đạt Đa). Sau khi Đại hội Phật giáo diễn ra tại Pataliputra năm 241 trước CN, hoàng đế Asoka đã mở rộng và truyền bá đạo Phật sâu rộng ở châu Á. Sự phát triển của Phật giáo đã ảnh hưởng đến muôn mặt đời sống lúc đó. Một hệ quả tất yếu là nền văn học Phật giáo Ấn Độ cũng ra đời, bao gồm cả thơ ca và văn xuôi - nhằm xây dựng những huyền thoại về Đức Phật, ca ngợi ân đức lớn lao, kỳ vĩ của Người cũng như bao lời khuyên giải và thuyết pháp của Người đối với chúng sinh. Một trong những tác phẩm Phật giáo kinh điển thời kỳ này là Jataka (những câu chuyện về tiền kiếp của Đức Phật). Jataka sau đó đã lan tỏa đến nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có các nước Đông Nam Á. Cùng với Phật giáo và theo con đường của Phật giáo, Jataka đã theo chân các nhà truyền giáo Ấn Độ đến Đông Nam Á và để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa các nước theo Phật giáo Tiểu thừa như Campuchia, Myanmar, Lào và Thái Lan.

Ngôn ngữ trong truyện ngắn Việt Nam đương đại viết về chiến

Ngôn ngữ là đơn vị cơ sở đầu tiên và cũng là đơn vị cuối cùng thể hiện những đặc sắc trong sáng tác của mỗi nhà văn. Với truyện ngắn, ngôn ngữ phải phát huy tối đa chức năng của mình do yêu cầu tính ngắn gọn của thể loại. Trong tiến trình vận động của văn xuôi Việt Nam đương đại, ngôn ngữ là thành tố thể hiện đậm nét sự cách tân mang hơi thở cuộc sống và tinh thần thời đại. Trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh, ngôn ngữ mang màu sắc mới mẻ, toát lên xu hướng chung của truyện ngắn đương đại và những nét riêng đặc sắc khi nhìn về đề tài chiến tranh.

Bản địa hóa văn học Phật giáo Ấn Độ ở một số nước Đông Nam Á lục địa: trường hợp Jataka 316

Jataka (hay Kinh bổn sinh), những câu chuyện kể về tiền thân của Phật, vốn có nguồn gốc từ Ấn Độ, ra đời vào TK II - III trước CN gồm 547 truyện. Do sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kinh điển Phật giáo với kho tàng văn học dân gian phong phú nên nó là một trong số ít tác phẩm được đông đảo độc giả, không chỉ ở lục địa Ấn mà nhiều nơi trên thế giới đón nhận, đặc biệt là một số nước Đông Nam Á. Từ cội nguồn văn minh nông nghiệp trồng lúa nước, các quốc gia này đã tiếp biến tập truyện Jataka của Ấn Độ, tạo ra các văn phẩm bản địa hóa để làm giàu có hơn cho nền văn hóa dân tộc mình. Trong bài này, tác giả bước đầu tìm hiểu quá trình bản địa hóa của Jataka tại một số nước Đông Nam Á thông qua trường hợp cụ thể là Jataka 316 trong Kinh bổn sinh.

Cảm thức tình yêu qua không-thời gian trong thơ R. Tagore

R. Tagore (1861 - 1941) đã để lại cho nhân loại 52 tập thơ, là thành tựu xuất sắc nhất trong gia tài nghệ thuật đồ sộ, vô giá của bậc thiên tài nghệ thuật này. Trong đó, với mảng thơ tình yêu, R. Tagore hiện lên như một người tình đắm say của cuộc đời, bởi theo ông, “con người đến với thế giới này không phải để làm chủ nhân, cũng không phải để làm nô lệ mà để làm một người tình”. Với nhãn quan của một người tình đến để chiêm ngưỡng, tận hưởng, dâng hiến cho cuộc đời, toàn vẹn tinh thần của chủ thể đắm chìm trong những suy tưởng miên man về sự gắn kết giữa hai tâm hồn, hai trạng thái, hai thế giới. Tất cả được định vị trong những không gian, thời gian xác định mà vườn và mùa xuân là hai dấu hiệu kết tụ rõ nhất cảm quan về một ý niệm vĩnh hằng là tình yêu.

Vẻ đẹp người phụ nữ Ấn Độ trong tập truyện ngắn Mây và mặt trời của R. Tagore

Văn học là thành tố quan trọng của văn hóa để phản ánh trung thực cuộc sống và Rabindranath Tagore được xem là “nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại” (1) của văn học Ấn Độ. Suốt cuộc đời, R.Tagore đã cất lên những bài đạo ca để tôn vinh, tỏ lòng sùng kính đối với con người, “phụng sự con người, con người của tổ quốc, con người của nhân loại” (2). Những sáng tác của ông luôn xuất phát từ lòng yêu thương con người. Mây và mặt trời là tập truyện ngắn thành công trên nhiều phương diện, đặc biệt, tác giả quan tâm đến số phận của người phụ nữ, ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ Ấn Độ.

Tình yêu đồng giới nữ hiếm lạ của văn xuôi Việt cuối thế kỷ XX

Một câu chuyện vừa giản dị, vừa lạ mắt về “thứ tình yêu bị xã hội chối bỏ” (Philip Herter) trong bối cảnh Việt Nam mới bước ra khỏi cơn khủng hoảng mang tên chiến tranh. Dù đã được viết cách đây 35 năm, ý nghĩa xã hội của Bố con là đàn bà vẫn còn mới ở hiện tại, khi việc nhìn nhận của xã hội về vấn đề đồng tính chưa hoàn toàn cởi mở. Lạ mắt bởi trước đó (thời điểm 1993), độc giả Việt Nam chưa từng chứng kiến thứ tình cảm nào như vậy trong văn chương nghệ thuật. Mô tả tình bạn, tình yêu đồng giới của hai người nữ bằng một giọng văn thản nhiên khách quan, có vẻ như Vũ Bão đang làm một công việc tất yếu và tối hậu của văn chương Việt sau đổi mới: phản ánh thứ hiện thực đang diễn tiến chứ không phải hiện thực trong mơ ước. Nhưng đọc hết thì lại thấy dường như sự tiên nghiệm về các mối quan hệ con người phức tạp, mập mờ mới chính là điều mà nhà văn muốn hướng tới.