Khép lại một chặng đường văn học kháng chiến ngót 30 năm với bao vinh quang, trải nghiệm, văn học Việt Nam chuyển mình bước vào giai đoạn mới đầy thử thách với những vận hội mới. Văn học 1945-1975 ghi nhận sự lên ngôi của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, tạo nên một chủ âm ngợi ca hào sảng, vang vọng trong mọi tác phẩm. Sau năm 1975, đặc biệt là từ giai đoạn đổi mới 1986, chất sử thi đã nhường chỗ cho chất tiểu thuyết. Tư duy tiểu thuyết như một công cụ soi chiếu mọi vấn đề xã hội, bề sâu số phận con người. Chất tiểu thuyết đậm đặc chi phối nội dung và hình thức của hồi ký, tạo nên sự biến đổi ở mọi phương diện từ tư duy sáng tác đến cấu trúc thể loại, từ nghệ thuật xây dựng nhân vật đến điểm nhìn, giọng điệu trần thuật...
Cốt lõi của hồi ký là sự thật được sàng lọc qua ký ức. Hồi ký không thể hư cấu như tiểu thuyết, không chấp nhận sự bịa đặt, xuyên tạc. Nhưng nhà văn hoàn toàn có thể chọn lọc, tưởng tượng, tái tạo lại những sự kiện trong quá khứ. Như Tobias Wolff viết trong phần giới thiệu cuốn hồi ký The boy’s life (Cuộc sống của một chàng trai): “Đây là một cuốn sách của bộ nhớ, và bộ nhớ có câu chuyện riêng của mình để nói”. Như vậy, chất tiểu thuyết không thể làm lay chuyển những giá trị tự thân đã làm nên bản sắc thể loại, nhưng hoàn toàn có thể hiện hình trong những thủ pháp miêu tả sự thật, âm vang trong cách kết cấu, đậm nét trong sự tái hiện hình tượng người kể chuyện, thế giới nhân vật đa thanh của ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật.
1. Kết cấu hiện đại
Trong kinh nghiệm sáng tác truyền thống, hồi ký thường được cấu trúc theo trật tự niên biểu, kết cấu đơn nhất, bám sát trục sự thật. Nhưng với việc học tập kỹ thuật viết tiểu thuyết, các tác giả hồi ký tiêu biểu như Tô Hoài, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Đặng Anh Đào… đã thể hiện những kiểu kết cấu khác lạ, biểu đạt hiệu quả ý đồ của người viết mà vẫn không làm sai lệch định hướng sự thật.
Hồi ký Cát bụi chân ai của Tô Hoài là một dẫn chứng tiêu biểu cho kỹ thuật lắp ghép, cắt dán trong kết cấu tác phẩm. Sự cắt dán thoải mái những mảnh hồi ức khiến người đọc rất dễ bị lạc trong mê hồn trận của hoài niệm. Chương mở đầu gợi nhắc đến nhà văn Nguyễn Tuân theo cách vu vơ, tưng tửng đúng kiểu Tô Hoài: “Tôi kém nguyễn Tuân 10 tuổi. Trước kia tôi không quen Nguyễn Tuân”(1). Người đọc bắt đầu dồn sự chú ý vào Nguyễn Tuân nhưng càng dõi theo mạch phát triển của hồi ký, sự đẩy đưa của những câu chuyện lan man, không đầu không cuối càng khiến ta rời xa trục ký ức ban đầu. Chuyện Nguyễn Bính mất con trong một cơn say mê sảng; chuyện Nguyên Hồng nước mắt ròng ròng vì bị mất chức chủ bút tờ báo Văn; chuyện Xuân Diệu với tình trai tội lỗi, những tối quờ quạng tìm bạn; chuyện về Kim Lân, Trần Dần, Văn Cao, Nguyễn Huy Tưởng… chập chờn trong những kỷ niệm mờ chồng, đứt quãng. Việc lắp ghép liên tục được trợ giúp bởi ký ức, tưởng tượng và các mối quan hệ xoay quanh nhân vật tôi. Trong chuỗi ký ức tưởng chừng ngẫu nhiên, rời rạc, kết dính một cách lỏng lẻo ấy, dường như vẫn luôn thấp thoáng hình bóng Nguyễn Tuân nghênh ngang, kiêu bạc, không lẫn lộn vào bất kỳ ai, không cúi đầu trước bất kỳ thế lực nào. Đọc Cát bụi chân ai của Tô Hoài giống như đọc một cuốn tiểu thuyết viết theo phong cách hậu hiện đại vừa ngẫu hứng, mơ hồ, vừa thâm sâu, u mặc.
Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào, với tác phẩm Tầm xuân, cũng thể nghiệm cách viết đầy kỹ thuật của tiểu thuyết vào hồi ký như chính bà đã tâm sự trong lời mở đầu: “Cuốn hồi ký này có sự khác biệt, ít nhất là ở tính chất không liên tục, nhảy quãng về thời gian, không gian, hình ảnh của hồi ức. Nhiều khi, một kỷ niệm xuất hiện ở những trang đầu, rồi những mảnh vỡ của nó trở đi, trở lại ở những câu chuyện sau, với những biến thái, dị bản mới” (2). Kết cấu mảnh vỡ chính là điểm đặc sắc của cuốn hồi ký này. Chuỗi hồi ức của bà như một hợp âm của màu sắc, hương vị, những cảm giác lắng đọng, được thổi hồn ngay từ tên gọi của các chương mục: Chiếc vành cánh bạc, Bữa cơm của mẹ, Cô gái mắt khô, Tầm xuân, Những người đi vào xứ sở khác, Chuyện trà lá của nhà văn… Mỗi chương giống như một câu chuyện nhỏ, giản dị, dẫn dắt người đọc men theo những kỷ niệm tản mát, vừa sâu lắng, vừa bay bổng về người cha nổi tiếng Đặng Thai Mai, một anh đồ xứ Nghệ điển hình, khảnh ăn, thích uống trà, bao dung với người làm nhưng vô cùng khó tính với vợ con và học trò… Kết cấu hồi ký không tuân theo trật tự thông thường của thời gian mà được xé lẻ theo sự lan tỏa của những dòng hồi ức bất tận. Hình ảnh tác giả được khắc họa không nhiều, nhưng nếu để ý, có thể nhận ra chân dung của một trong năm cô con gái tài năng của nhà văn họ Đặng. Từ khi còn là một cô bé non nớt, khao khát có được chiếc vành cánh bạc qua những tháng ngày ê a hát những bài hát tiếng Pháp, chép Chinh phụ ngâm cho ba đến lúc trở thành một học giả tên tuổi với phong cách nghiên cứu sắc sảo, uyên thâm, được thế giới công nhận.
Một số hồi ký khác cũng mang cách kết cấu hiện đại (Viết về bè bạn - Bùi Ngọc Tấn, Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương - Ma Văn Kháng, Cô bé nhìn mưa - Đặng Thị Hạnh…) giúp nới rộng đường biên thể loại. Người đọc có thể thoải mái tiếp nhận tác phẩm theo tầm đón rất riêng của mình.
2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đầy tính dư
Trong tiểu thuyết, ưu điểm về trường tiếp xúc với hiện tại giúp nhà văn luôn khám phá con người trong sự vận động, biến đổi, thậm chí có xu hướng bộc lộ cả những “phần dư nhân tính” (theo cách dùng của Bakhtin). Nhân vật của tiểu thuyết với sự hòa trộn tuyệt vời giữa tính khái quát và tính cá thể làm nên những điển hình nhiều khi còn thật hơn cả con người thật. Ngược lại, trong hồi ký truyền thống, sự tái hiện thế giới, sự kiện, con người, từ cái nhìn ngược về quá khứ, khiến các nhân vật dường như đều mang tính bất biến, bình ổn, không phá cách. Nhưng càng ngày, với việc hấp thụ chất tiểu thuyết vào tác phẩm hồi ký, các tác giả đã mở rộng biên độ phản ánh, sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để xây dựng những nhân vật suy nghiệm. Nhân vật luôn tự vấn bản thân, có những phát triển bất ngờ trong cá tính cũng như không bao giờ bị đóng khung trong một khuôn mẫu chật hẹp của sự thật. Tất nhiên, sự sáng tạo trong cách xây dựng nhân vật của hồi ký vẫn luôn đảm bảo nguyên tắc bám sát người thật việc thật. Người viết hồi ký vì thế phải biết “bỏ giả lấy thật, bỏ thô lấy tinh, chọn lọc trong hàng đống chi tiết của cuộc sống những chi tiết vừa sinh động lại vừa tiêu biểu, những chi tiết đắt nhất, để tái tạo thành hình tượng điển hình” (3).
Trung tâm của hồi ký thời kỳ này vẫn là nhân vật xưng tôi, hình tượng nghệ thuật của một tác giả cụ thể với tên tuổi, tính cách đã được xác tín ngoài đời thực nhưng không bao giờ trùng khít hoàn toàn với con người bằng xương, bằng thịt phía ngoài trang sách. Giờ đây, nhiều tác giả viết hồi ký không hẳn chỉ để kể lại những bí mật đã qua nhằm thỏa mãn trí tò mò của độc giả. Hơn hết, khi đã trải qua một thời gian đủ dài để tĩnh tâm, nhìn sâu vào quá khứ, khi thời cuộc cho họ cơ hội để phát ngôn một cách trung thực, thẳng thắn, họ đều muốn lật tẩy lại bản ngã của chính mình trong những năm tháng xa xôi ấy (4). Mỗi người đối diện với quá khứ không chỉ bằng sự tỉnh táo suy ngẫm của thời hiện tại mà còn gửi gắm vào đó biết bao tâm tư rung động, những khao khát mơ hồ, những níu giữ vội vàng, ước vọng hướng đến đến tương lai.
Dễ thấy một Tô Hoài thẳng thắn đến mức sỗ sàng (đôi khi văng tục trên trang sách), tình nghĩa đến mức hơi bi lụy (khi chứng kiến những nỗi đau của các bạn văn), là con người mang dục tính như bất kỳ ai (khi bị kéo vào cuộc làm tình vụng trộm với Xuân Diệu), trong loạt hồi ký Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Những gương mặt chân dung văn học… hoàn toàn khác. Đó là một Tô Hoài không lúc nào thôi cật vấn mình trong những trang hồi ký. Một Tô Hoài đầy những mâu thuẫn và trăn trở, tự khinh khi chính bản thân qua lời quở mắng của bạn bè: “Thằng ngoại ô láu cá, văn chương đẽo gọt!” (Như Phong), “Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn! Ông thì không, Nguyên Hồng thì không” (Nguyên Hồng), “Mồm nói thế này, bụng lại nghĩ khác. Thằng cơ hội!” (Nguyễn Tuân). Không chỉ có Tô Hoài, nhờ hồi ký, người đọc đã khám phá ra nhiều tác giả khác, qua những lời “trung thực đến đáy”. Những chi tiết đắt giá vô tình hay cố ý hé lộ những bản thể thú vị, đầy phức tạp. Một Vũ Bão hiện ra trong Rễ bèo chân sóng như một hình mẫu của sự thâm trầm, lịch duyệt, một người có năng lực quan sát tinh nhạy, luôn điềm tĩnh vượt lên mọi thử thách, trái ngược với một nhà văn, nhà báo dí dỏm, sôi nổi ngoài đời thực. Một Bùi Ngọc Tấn rất xông xáo, mạnh mẽ, phóng khoáng qua những trang tiểu thuyết và phóng sự lại hiện lên trong những dòng hồi ức Viết về bè bạn với một thái độ e dè, khiêm nhường, tự coi mình chỉ là “cây gai, cây ké bên lề đường văn học”. Một Đặng Anh Đào bác học, nghiêm cẩn trong những công trình nghiên cứu, dịch thuật lại là một người đàn bà thật giản dị, hóm hỉnh, đầy sức hút trong hồi ký Tầm xuân. Họ như sống một cuộc đời khác trong hồi ký của chính mình.
Bên cạnh sự thể hiện đầy nghệ thuật của các nhân vật xưng tôi, người đọc còn được đón nhận những bức chân dung nhiều chiều của thế giới nhân vật trong văn bản. Bằng một vài dòng miêu tả sắc nét, những cuộc đối thoại hành động, cử chỉ tưởng như vụn vặt, các tác giả hồi ký đã tài tình lột tả chiều sâu tính cách của mỗi nhân vật, giúp họ tiếp cận với khả năng điển hình hóa như trong tiểu thuyết. Vẫn là Nguyễn Tuân tài hoa, ngông ngạo trong làng văn nhưng con người ấy, khi được đặt trong không gian mờ tối với những ánh đèn leo lắt ở dốc ngã sáu Hàng Kèn, ưu tư bên làn khói thuốc và nói: “Cứ ngồi đây mình lại nhớ nó. Không hiểu sao”, khi “rút khăn tay chấm mắt” sau điệu hò Phú Ơn… (Cát bụi chân ai) bỗng hiện lên như biểu tượng của nghĩa tình đất Việt, của thứ văn hóa dân tộc sâu lắng dễ làm người ta bùi ngùi vì nhớ tiếc. Xuân Diệu, ông hoàng thơ tình, ở mỗi cuốn hồi ký khác nhau lại được khắc họa thêm một chiều kích mới. Người bạn chung thủy, nhiệt tình trong Hồi ký song đôi, người cán bộ thận trọng, nghiêm túc trong Rễ bèo chân sóng, nhà thơ đầy những ẩn ức, khắc khoải trong Cát bụi chân ai… Hay Nguyên Hồng nhạy cảm, trước những kiếp đời bé nhỏ, tận tụy với công việc viết văn đến quên mình, dễ xúc động và nghiện rượu. Một Nguyên Hồng chân thật trong hồi ký của Bùi Ngọc Tấn và Tô Hoài. Thật hơn cả những trang viết của chính Nguyên Hồng. Hồi ký bằng sức nặng của những câu văn chuyên chở sự thật đã phác họa thành công rất nhiều nhân vật như thế.
3. Kỹ thuật tự sự tạo tính đa thanh cho văn bản
Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật và luân phiên thay đổi điểm nhìn từ bên ngoài vào bên trong là một đặc điểm độc đáo, tạo nên tính đa thanh của tiểu thuyết. Nhiều hồi ký xuất hiện trong thời kỳ đổi mới đã vận dụng thành công các kỹ thuật tự sự của tiểu thuyết như: Cát bụi chân ai, Chiều chiều của Tô Hoài, Viết về bè bạn của Bùi Ngọc Tấn, Tầm xuân của Đặng Anh Đào, Đặng Thai Mai hồi ký, Nhớ lại một thời của Tố Hữu... Khác với văn bản hồi ký truyền thống được tái diễn từ điểm nhìn của một người kể chuyện toàn tri, từ tầm cao hiện tại nhìn về quá khứ xa vời với thái độ điềm tĩnh, giọng điệu trước sau như nhất, các tác phẩm hồi ký theo xu hướng hiện đại thường lựa chọn trần thuật từ điểm nhìn của người kể chuyện bất toàn tri, luôn băn khoăn, hồ hởi trước mỗi sự kiện diễn ra và luân phiên trao điểm nhìn trần thuật đến những nhân vật khác nhau trong văn bản. Phương thức trần thuật này làm tăng tính đối thoại của văn bản, làm xuất hiện nhiều bè giọng trong hồi ký, kéo người đọc vào cuộc hành trình khám phá những bí ẩn tận cùng của sự thật.
Với việc gia tăng điểm nhìn trần thuật, Viết về bè bạn của Bùi Ngọc Tấn, tuy là hồi ký của một cá nhân viết tặng cho những người bạn nghệ sĩ của mình nhưng không hề có tính thông báo, diễn giải một chiều như các hồi ký trước đây. Mà thực sự đã trở thành một cuộc đối thoại giữa nhà văn với các nhân vật của mình, giữa các nhân vật trong trang sách với bạn đọc. Cuốn sách được chia thành hai phần lớn: Rừng xưa xanh lá và Một thời để mất. Phần thứ nhất gồm nhiều chương mục nhỏ, mỗi chương kể về một hoặc một vài người bạn trong giới văn nghệ sĩ. Ở mỗi chương, các nhân vật hầu như được tác giả trao cho lời dẫn chuyện, tự kể về mình với nhiều giọng điệu khác nhau. Rừng xưa xanh lá là câu chuyện của Chu Lai, Đình Kính, Nguyễn Quang Thân với giọng hài hước xen lẫn chua chát, giễu nhại. Vũ Bão, một tiếng cười - một dòng cười là những ký ức đầy hoài nhớ của Bùi Ngọc Tấn trước tin bạn đã đi xa. Một mơ ước về kiếp sau là chuyện của nhà thơ nữ đa đoan Nguyễn Thị Hoài Thanh với giọng kể trầm lắng, trữ tình… Cũng có khi điểm nhìn bên ngoài của tác giả như hòa vào điểm nhìn bên trong của nhân vật để thống thiết nói lên những chiều sâu tâm sự không thể giãi bày. Ông hiểu nỗi cô đơn kiệt cùng của Nguyễn Thị Hoài Thanh “Em tôi nào ngủ được. Bởi cô đơn. Bởi hoang vắng. Bởi nhà đề bô tối om từng có người chết ở liền bên…”. Hiểu những khổ sở day dứt của Mạc Lân mỗi lần bán máu “Những lần đầu đứng ngồi xì xụp bát phở ngoài hành lang ngượng lắm. Cắm mặt mà và, mà xụp xoạp cho nhanh. Nhưng rồi quen. Nghĩ mình lương thiện. Quá lương thiện. Lương thiện gấp trăm lần những người khác…” (Thời gian gấp ruổi). Phần thứ hai của cuốn sách là dòng hồi ức chảy tràn về nhà văn lớn Nguyên Hồng. Ở đó, không chỉ có điểm nhìn của Bùi Ngọc Tấn mà còn có sự giao kết của những điểm nhìn từ Xuân Diệu, Vũ Thư Hiên, Dương Tường, Nguyên Bình… để tạo nên bức chân dung sống động về một nhà văn gắn với Hải Phòng, nhà văn của những kiếp khổ đau.
Hồi ký Tô Hoài luôn là sự đan xen rất nhiều điểm nhìn và giọng trần thuật khác nhau một cách hữu ý. Như một đoạn văn trích lược sau đây: “Chúng tôi và người phiên dịch, với Giôn ngồi quanh chiếc bàn nhỏ, trên đặt gói thuốc lá Thủ đô bao bạc và một đĩa kẹo… Tôi rơi xuống nước, thả phao nổi bơi được ngay. Thế mà, không biết vướng vào đâu, một bên đầu gối sái không cựa được. Tôi chưa kịp mở điện đài. Nhìn ra, thuyền và súng đã vây quanh. Bị bắt hơn một tháng, thưa các ông, lúc nào tôi cũng thèm thịt bò… Lúc ấy, khoảng hai giờ trưa. Lên bờ, tôi được cởi trói, mô tô đèo tôi một quãng rồi xe camiông đem đi” (4).
Nhìn thoáng qua, có thể nhận ra đây là một đoạn độc thoại của tên phi công Mỹ khi bị bắt. Điều thú vị là những lời nói của tên lính Mỹ không hề được ngăn cách với lời dẫn dắt của nhân vật tôi, cũng không được ký hiệu riêng biệt để đánh dấu lời nói nên rất dễ lẫn vào lời kể của người dẫn chuyện. Ta nhận ra ít nhất có hai giọng điệu khác nhau xuất hiện: giọng bao biện giảo hoạt của kẻ muốn lấp liếm mọi tội lỗi và giọng điềm tĩnh suy xét của người quan sát. Cách chêm xen khéo léo làm nổi rõ ý đồ của tác giả, giúp người đọc hiểu hơn tính chất của cuộc thăm tù cũng như tính cách đối lập của hai phía.
Từ cách phối hợp linh hoạt các điểm nhìn trần thuật đến việc tạo lập giọng điệu trần thuật đa thanh, các tác giả hồi ký đã thành công trong việc chuyển tải hơi thở của thời đại, phản ánh sâu sắc những vấn đề của hôm nay.
“Thể loại, trong một quan niệm quen thuộc và ổn định của lý luận cũng như trong thực tiễn sáng tạo là các dạng thức tổ chức tác phẩm, quy tụ những hình thức nhìn nhận và phản ánh đời sống. Thể loại vừa ổn định vừa biến đổi, một mặt nó lưu giữ những yếu tố hạt nhân, những mã di truyền để bảo tồn trạng thái ổn định, mặt khác, nó luôn có xu hướng biến dạng, tạo nên các biến thể phong phú phù hợp với sinh tồn của nó trong mỗi thời đại văn học”(5). Soi vào quan điểm trên, ta nhận thấy việc tiếp nhận chất tiểu thuyết vào các tác phẩm hồi ký thời kỳ đổi mới là một xu hướng tất yếu, hòa trong khuynh hướng vận động chung của bức tranh thể loại. Chất tiểu thuyết, nếu vận dụng hợp lý sáng tạo, sẽ không làm hồi ký rời xa trục sự thật mà càng khiến cho mọi dòng chảy của hồi ức trở nên ấn tượng hơn, hấp dẫn hơn và đạt được hiệu quả tác động thẩm mỹ cao hơn.
_______________
1, 5. Vũ Tuấn Anh, Đời sống thể loại trong quá trình văn học đương đại, Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2001, tr.460.
2. Đặng Anh Đào, Tầm xuân, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2005, tr.5.
3. Nam Mộc, Thể ký và vấn đề viết về ngưòi thật việc thật, Về lý luận - phê bình văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.562.
4. Bùi Ngọc Tấn, Viết về bè bạn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2012, tr.286.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 387, tháng 9-2016
Tác giả : TRẦN THỊ HỒNG HOA