• Nghệ thuật > Mỹ thuật, kiến trúc

TƯỢNG THÚ ĐÁ TRONG ĐIÊU KHẮC CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI VIỆT

Hiện nay, một bộ phận không nhỏ người dân mua những tượng thú có xuất xứ từ nước ngoài mang về nhà trưng bày hoặc cúng tiến các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, tưởng niệm... Việc làm này không những vô tình đánh mất đi bản sắc văn hóa dân tộc mà còn lãng quên đi những giá trị đặc trưng của nền nghệ thuật điêu khắc cổ truyền. Bài viết này sẽ đề cập đến một số giá trị đặc trưng của tạo hình ở tượng thú trong nền điêu khắc cổ truyền, qua đó nói lên những giá trị thẩm mỹ đặc sắc trong điêu khắc của người Việt và hoàn toàn phù hợp với cuộc sống hiện đại hôm nay.

NGHỆ THUẬT TRANH CỔ ĐỘNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 - 1985

Ông Dominic Scriven - Giám đốc quỹ đầu tư danh tiếng Dragon Capital, là một người Anh nhưng rất đam mê và sưu tầm tranh cổ động của Việt Nam, đã từng nói “Nghệ thuật tranh cổ động của Việt Nam vô cùng độc đáo, bản thân nghệ thuật cổ động rất đặc biệt bởi nó chỉ tồn tại ở các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN). Tuy nhiên, tranh cổ động Việt Nam có phong cách hoàn toàn khác hẳn, những bức tranh cổ động Việt Nam đầy màu sắc và có sức thuyết phục mạnh mẽ nhưng lại không hề phô trương... Tranh cổ động Việt Nam thuộc về một thời kỳ cũ nhưng thông điệp của nó thì vượt lên trên thời gian” (1).

NHÌN LẠI XU HƯỚNG TỐI GIẢN CỦA HỘI HỌA VÀ ĐIÊU KHẮC Ở VIỆT NAM

Nghệ thuật tối giản (minnimal art) là chủ trương giản lược hóa hình tượng, đến mức chỉ còn là một khối vuông, khối dẹt, hay khối kỷ hà, nhân lên nhiều bản giống nhau, bày thành một dãy theo phương pháp module của công nghiệp hay kiến trúc (1). Tối giản trở thành xu hướng trên thế giới, bắt đầu từ Mỹ trong thập niên 60 TK XX. Ở Việt Nam, nghệ thuật tối giản được các nghệ sĩ hội họa và điêu khắc áp dụng từ rất sớm và để lại những thành công nhất định. Bài viết góp một cái nhìn lại xu hướng tối giản ở hai lĩnh vực hội họa và điêu khắc, để thấy rõ hơn sự vận động của nó trong mỹ thuật Việt Nam hiện đại và đương đại.

NGHỆ THUẬT ĐỒ HỌA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ 1986 ĐẾN NAY

Có thể nói, năm 1986 với chính sách mở cửa và hội nhập là bước ngoặt lịch sử, mở đầu cho thời kỳ đổi mới của đất nước. Hoạt động văn hóa nghệ thuật bắt đầu có sự bùng nổ, phát triển qua nhiều mặt. Văn hóa ngày càng gắn liền hơn với thị trường và mục tiêu đào tạo. Các cơ sở đào tạo mỹ thuật cũng thay đổi tư duy, nội dung và phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế trong xã hội. Hình thức hoạt động của các Hội chuyên ngành từng bước đi vào chiều sâu, mang tính chuyên nghiệp hơn. Các hình thức đầu tư cho sáng tác được đổi mới, đồng thời khuyến khích và đề cao tự do trong sáng tạo nghệ thuật.

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG TRANH SƠN DẦU GIAI ĐOẠN 1986 - 2016

Công cuộc đổi mới ảnh hưởng không nhỏ tới văn hóa nghệ thuật trong đó có mỹ thuật. Một thế hệ họa sĩ thời kỳ đổi mới đã hình thành, tạo nên diện mạo mỹ thuật đương đại Việt Nam đa dạng và có dấu ấn cá nhân của tác giả. Lĩnh vực hội họa có thể nói chiếm ưu thế lớn trên mọi diễn đàn về mỹ thuật Việt Nam thời kỳ này. Các tác phẩm hội họa thể hiện sự phản ánh trung thực cuộc sống ở tất cả các góc độ, thực tại bên trong của sự vật, người xem cảm nhận phần nào những cảm hứng sáng tác của nghệ sĩ luôn gắn liền với đời sống, với thời đại.

KHÔNG GIAN VĂN HÓA KIẾN TRÚC TRUYỀN THỐNG BẢN ĐỊA Ở TÂY NGUYÊN

Vùng Trường Sơn - Tây Nguyên là địa bàn sinh sống lâu đời của gần 20 tộc người bản địa, thuộc về hai dòng ngôn ngữ Môn Khơme (Cơ tu, Ba na, Xơ đăng, Mnông, Mạ, Xtiêng…) và Maylayô - Pôlynêxia (Gia rai, Ê đê, Chu ru, Raglai). Xưa kia, chỉ có các tộc người này là chủ nhân của xứ sở rừng núi và cao nguyên rộng lớn, về sau được gọi là Trường Sơn - Tây Nguyên. Ngày nay, ở nhiều nơi, họ trở thành cư dân thiểu số, bởi những người từ nơi khác di cư tới, đa phần là người Kinh. Cư dân bản địa nơi đây sở hữu nền văn hóa đặc sắc, phong phú, vừa có tính tương đồng trong cả vùng, vừa có sự đa dạng giữa các địa phương, các tộc người… Chính vì vậy, các nhà văn hóa học đã phân định đây là một vùng văn hóa của Việt Nam với những đặc trưng cấu trúc không gian sinh sống hết sức khác biệt.

MÀU SẮC CHÙA VIỆT Ở CHÂU THỔ BẮC BỘ

Ngay từ cuối thời Lý, Phật giáo đã mất vai trò chủ chốt trong hệ thống tư tưởng, tôn giáo của giai cấp thống trị. Theo đó, chùa Việt không còn là thiết chế tâm linh quan trọng trong đời sống chính trị cung đình nữa, phải lui dần về nương náu ở các làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Vì vậy, cho đến nay, đại đa số chùa của người Việt ở Bắc Bộ là những ngôi chùa làng và mọi khía cạnh trong kiến trúc, thẩm mỹ của ngôi chùa đều chịu tác động chủ yếu bởi làng Việt, một đơn vị xã hội căn bản, một xã hội thu nhỏ.

KỸ THUẬT IN KHẮC GỖ Ở ĐÔNG Á

Kỹ thuật in khắc gỗ ở các nước châu Á có lịch sử phát triển từ nhiều thế kỷ trước châu Âu, sớm nhất là Trung Hoa, rồi tới Triều Tiên, Nhật Bản, thuộc khu vực Đông Bắc Á và Việt Nam (1). In khắc gỗ còn được gọi là in mộc bản, thuộc kỹ thuật in nổi và là phương pháp in ấn lâu đời nhất. Trước khi có kỹ thuật này, sách cũng như các văn bản khác thường được lưu hành bằng cách chép tay. Việc khắc nội dung văn bản lên ván gỗ rồi in trên giấy (hoặc lụa) giúp việc nhân bản một cuốn sách trở nên dễ dàng, chính xác.

KIM YOUNG-SE NHÀ THIẾT KẾ CỦA TƯƠNG LAI

Nhà sáng lập và giám đốc công ty thiết kế Innodesign, Kim Young-se, là một trong những nhà thiết kế công nghiệp xuất sắc nhất của Hàn Quốc. Tại cuộc triển lãm hàng điện tử tiêu dùng quốc tế 2005 (CES - 2005), Bill Gates ca ngợi tác phẩm iriver H10 (máy chơi nhạc MP3) của Kim là một trong những sản phẩm thiết kế hàng đầu trong kỷ nguyên kỹ thuật số. Qua hàng loạt các sản phẩm mang tinh thần đổi mới, Kim đã và đang chứng minh với thế giới khả năng thiên tài của mình.