• Nghệ thuật > Mỹ thuật, kiến trúc

NGHỆ THUẬT PHÁP LAM HUẾ THẾ KỶ XIX

Pháp lam Huế xuất hiện vào TK XIX phục vụ trang trí diện mạo cho các công trình kiến trúc. Pháp lam được chế tác bằng các kỹ thuật cực kỳ tinh xảo. Đề tài trang trí bằng nhiều hệ thống - kiểu thức đa dạng, làm tôn vẻ trang trọng uy nghi vốn có của chốn Hoàng cung và làm cho các cung điện, lăng tẩm, đền đài thêm vẻ tôn nghiêm sùng kính.

VIÊN NGỌC CỦA NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC LĨNH NAM

Từ đường Trần gia (1) nằm tại số 7, đường Trung Sơn, Quảng Châu (Trung Quốc) là một quần thể kiến trúc cổ được bảo tồn tốt nhất của vùng Quảng Đông. Từ đường được xây dựng năm 1888, niên hiệu Quang Tự 14, hoàn thành năm 1894, thuộc vào cuối triều đại nhà Thanh. Đây là nhà thờ tộc, do dòng họ Trần ở 72 huyện của tỉnh Quảng Đông đóng góp xây dựng. Với kỹ thuật trang trí tinh xảo, ngôi từ đường được coi là đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc Lĩnh Nam, một trong mười điểm du lịch hàng đầu tại Quảng Châu và là điểm tham quan nghệ thuật đặc biệt nhất của khu vực Lĩnh Nam.

NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ VÀ KIẾN TRÚC TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH THỜ MẪU Ở PHỦ DÀY

Những giá trị nghệ thuật của tín ngưỡng thờ Mẫu đóng vai trò và vị trí vô cùng quan trọng trong bản sắc văn hóa nước ta về nhiều mặt: văn học, âm nhạc, kiến trúc, hội họa. “Vì vậy, mỹ thuật tôn giáo chính là sự thống nhất hữu cơ giữa các yếu tố tạo hình nhằm truyền đạt được ý đồ tư tưởng, đức tin trong tâm linh của các tín đồ, làm sống dậy các hình tượng thần thánh trong các thế giới tưởng tượng, phục vụ hiệu quả cho các chức năng và mục đích của tôn giáo” (1). Quần thể di tích Phủ Dày là một trong số các di sản vật thể được Bộ VHTT xếp hạng sớm nhất từ năm 1975 thuộc địa bàn xã Kim Thái, chủ yếu là hai thôn Vân Cát và Tiên Hương, với 19 di tích bao gồm đền, chùa, phủ, lăng. Trong đó ba di tích lớn của quần thể này là phủ Tiên Hương, phủ Vân Cát và lăng Thánh Mẫu. Đây là 3 công trình tiêu biểu cho nghệ thuật trang trí và kiến trúc cuối TK XIX, đầu TK XX của không gian tín ngưỡng thờ Mẫu tại đồng bằng Bắc Bộ.

VĂN HÓA TRANG PHỤC QUA TÁC PHẨM MÂN HÀNH THI THOẠI TẬP

Lý Văn Phức (1785 - 1849) có tự là: Lân Chi, hiệu: Khắc Trai và Tô Xuyên, sinh tại phường Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, thành Hà Nội. Trong 12 năm (1830 - 1841), vâng mệnh vua, ông thực hiện 11 chuyến công du đến những miền đất, vùng biển xa xôi, từ đó nhiều tác phẩm văn chương ra đời. Năm Tân Mão 1831, Lý Văn Phức hộ tống người nước Thanh là Giám sinh Trần Khải cùng gia quyến gặp nạn gió bão dạt vào vùng biển Bình Định về nước trên con thuyền Thụy Long. Chuyến đi có đích đến là đất Mân (tỉnh Phúc Kiến), cũng chính là quê cha đất tổ của Lý Văn Phức. Từ chuyến đi này, tác phẩm Mân hành thi thoại tập ra đời với tập hợp 111 đơn vị thơ, văn bao gồm 94 sáng tác của Lý Văn Phức trong chuyến đi Mân thuộc các thể loại thơ, ký, phú, biện luận, thư từ, ghi chép... và 21 sáng tác xướng họa của giới quan chức triều nhà Thanh, các thành viên trong đoàn sứ bộ. Dựa trên cơ sở giải mã, phiên dịch văn bản tác phẩm với khảo sát những mô tả về trang phục của giới quan viên, giới bình dân Trung Hoa lúc bấy giờ, cũng như diện mạo y quan của chính phái đoàn sứ thần Việt Nam, chúng tôi mong muốn góp thêm mảng tư liệu minh chứng cho văn hóa trang phục đầu TK XIX của Việt Nam và Trung Hoa.

HỘI HỌA VÀ TẦNG LỚP TRÍ THỨC MỚI Ở VIỆT NAM

Nền hội họa hiện đại Việt Nam thực chất mới được khai mở từ khi người Pháp mở trường mỹ thuật năm 1925 tại Hà Nội. Trước đó, cũng đã có một số lối vẽ tay và hình thức hoạt động sáng tác tạo hình trong xã hội phong kiến nhưng chỉ lẻ tẻ, chưa phổ biến và chưa hình thành nên bất kỳ một trào lưu, xu hướng sáng tác nào. Do lịch sử hình thành một nền mỹ thuật nói chung còn rất non trẻ, chưa được 100 năm, chúng ta không thể đòi hỏi ở giới họa sĩ những thành quả lớn lao sánh với thế giới. Nhưng giới họa sĩ Việt Nam đã trở thành tầng lớp trí thức mới trong xã hội và có trọng trách của mình. Trong bài viết này, chúng tôi thử đi tìm căn cứ lịch sử mỹ thuật và lịch sử tầng lớp họa sĩ Việt Nam hiện đại với mong muốn có thể đóng góp một cách lý giải những điều cho là còn bất cập của hội họa Việt Nam hiện nay.

HỌA SĨ VÀ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU CỦA DÒNG TRANH SƠN MÀI VIỆT NAM

Lịch sử nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại đã tiếp thu nhiều tư tưởng nghệ thuật từ phương Tây, đặc biệt ảnh hưởng rất lớn từ nền nghệ thuật hội họa Pháp. Tuy nhiên ngoài sự tiếp nhận, các họa sĩ Việt Nam còn sáng tạo ra một chất liệu hội họa mới cho nền nghệ thuật hội họa Việt Nam, đó là chất liệu sơn mài. Đây là sự tìm tòi và phát triển kỹ thuật của nghề sơn (nghề sơn ta) một nghề thủ công truyền thống của người Việt, được nghệ sĩ tạo hình kết hợp thành chất liệu để làm ra tranh sơn mài. Trải qua gần một thế kỷ hình thành và phát triển của dòng tranh sơn mài, mỹ thuật Việt Nam có quyền tự hào về nghệ thuật sơn mài đã được nhiều nơi trên thế giới đón nhận. Một số tác phẩm đã trở thành bảo vật Quốc gia của Việt Nam.

HÌNH TƯỢNG CÁ TRONG TRANG TRÍ KIẾN TRÚC THỜI NGUYỄN

Trong hệ thống hoa văn trang trí của kiến trúc truyền thống Việt Nam, hình tượng con cá, cụ thể là cá chép, rất phổ biến. Cá thường gắn với biểu tượng của nguồn nước, luôn mang sự may mắn và báo hiệu điềm lành, sự trường thọ. Với mỹ thuật Huế nói riêng, hình tượng con cá trở thành đề tài nở rộ, phong phú, được trang trí trên nhiều vị trí kiến trúc cung đình với nhiều chất liệu và hình thức biểu đạt khác nhau. Hình tượng cá đã góp phần tạo hiệu quả thẩm mỹ trong tạo hình, phản ánh được ý nghĩa tâm linh để từ đó thống nhất trong tư tưởng chủ đề.

DI SẢN PHỦ ĐỆ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ, TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI

Phủ đệ là tên gọi chung chỉ những ngôi nhà được dựng lên khi các hoàng tử, công chúa đến tuổi trưởng thành, được nhà vua cho phép ra ở riêng. Sau khi các ông hoàng, bà chúa ấy qua đời, tòa chính đường trong phủ, nơi ở lúc sinh thời của họ, trở thành nơi thờ tự vong linh của chính họ. Phủ đệ luôn được xem là di sản văn hóa sống động của đất cố đô Huế, có từ đầu triều Nguyễn, và vẫn còn tồn tại khá nguyên vẹn cho đến ngày nay. Phủ đệ mang nhiều giá trị lịch sử, kiến trúc, văn hóa nghệ thuật độc đáo, tạo nên bản sắc văn hóa Huế, ảnh hưởng lớn đến việc hình thành tính cách, tâm hồn của con người xứ Huế.

YẾU TỐ SẮP ĐẶT VÀ POP ART TRONG TRIỂN LÃM GÀ CỦA ĐINH CÔNG ĐẠT

Từ năm 2000 đến nay, bên cạnh điêu khắc sáng tác theo lối tạo hình truyền thống, đã xuất hiện những tác phẩm sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật đương đại,từ chất liệu, kỹ thuật đến không gian trưng bày, tạo được hiệu quả thị giác và sự tương tác với người xem. Đó là sự kết hợp của những yếu tố sắp đặt, pop art trong nghệ thuật điêu khắc, tạo tính đa dạng, sinh động, mang màu sắc hài hước dí dỏm cho những câu chuyện đương thời. Một trong những nghệ sĩ tạo được dấu ấn với công chúng trong phong cách nghệ thuật điêu khắc này là Đinh Công Đạt. Vốn nổi tiếng với hình tượng các loài côn trùng và động vật trên chất liệu kim loại nhưng ở triển lãm Gà: chip, chic, chicky, tổ chức tại viện Goethe, Hà Nội, tháng 6 - 2011, anh đã thể nghiệm khá ấn tượng các tác phẩm điêu khắc giấy bìa qua sắp đặt một trang trại gà, gợi nhiều ẩn dụ về cuộc sống.

TƯỢNG THÚ ĐÁ TRONG ĐIÊU KHẮC CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI VIỆT

Hiện nay, một bộ phận không nhỏ người dân mua những tượng thú có xuất xứ từ nước ngoài mang về nhà trưng bày hoặc cúng tiến các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, tưởng niệm... Việc làm này không những vô tình đánh mất đi bản sắc văn hóa dân tộc mà còn lãng quên đi những giá trị đặc trưng của nền nghệ thuật điêu khắc cổ truyền. Bài viết này sẽ đề cập đến một số giá trị đặc trưng của tạo hình ở tượng thú trong nền điêu khắc cổ truyền, qua đó nói lên những giá trị thẩm mỹ đặc sắc trong điêu khắc của người Việt và hoàn toàn phù hợp với cuộc sống hiện đại hôm nay.

NGHỆ THUẬT TRANH CỔ ĐỘNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 - 1985

Ông Dominic Scriven - Giám đốc quỹ đầu tư danh tiếng Dragon Capital, là một người Anh nhưng rất đam mê và sưu tầm tranh cổ động của Việt Nam, đã từng nói “Nghệ thuật tranh cổ động của Việt Nam vô cùng độc đáo, bản thân nghệ thuật cổ động rất đặc biệt bởi nó chỉ tồn tại ở các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN). Tuy nhiên, tranh cổ động Việt Nam có phong cách hoàn toàn khác hẳn, những bức tranh cổ động Việt Nam đầy màu sắc và có sức thuyết phục mạnh mẽ nhưng lại không hề phô trương... Tranh cổ động Việt Nam thuộc về một thời kỳ cũ nhưng thông điệp của nó thì vượt lên trên thời gian” (1).