Lịch sử nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại đã tiếp thu nhiều tư tưởng nghệ thuật từ phương Tây, đặc biệt ảnh hưởng rất lớn từ nền nghệ thuật hội họa Pháp. Tuy nhiên ngoài sự tiếp nhận, các họa sĩ Việt Nam còn sáng tạo ra một chất liệu hội họa mới cho nền nghệ thuật hội họa Việt Nam, đó là chất liệu sơn mài. Đây là sự tìm tòi và phát triển kỹ thuật của nghề sơn (nghề sơn ta) một nghề thủ công truyền thống của người Việt, được nghệ sĩ tạo hình kết hợp thành chất liệu để làm ra tranh sơn mài. Trải qua gần một thế kỷ hình thành và phát triển của dòng tranh sơn mài, mỹ thuật Việt Nam có quyền tự hào về nghệ thuật sơn mài đã được nhiều nơi trên thế giới đón nhận. Một số tác phẩm đã trở thành bảo vật Quốc gia của Việt Nam.
Đầu những năm 30 của TK XX, họa sĩ Trần Quang Trân đã có những thí nghiệm với sơn ta, rồi Lê Phổ, Mai Trung Thứ cũng thể hiện lối vẽ sơn ta nhưng phần màu sơn không mài được. Theo cố họa sĩ Lê Quốc Lộc, một trong những bậc thày của hội họa sơn mài Việt Nam, “vào năm 1932, người đã tìm ra cách mài được tranh vẽ bằng sơn ta là họa sĩ Trần Văn Cẩn phối hợp với bác phó sơn Đinh Văn Thành. Hai người qua nhiều lần thể nghiệm đã khám phá ra cách nấu sơn cánh gián có pha nhựa thông chứ không pha dầu trẩu để có thể cùng mài được với sơn then vốn đã pha nhựa thông từ xưa. Như vậy cả hai thứ sơn đều có độ dính như nhau, có sức bền chắc cứng, có thể chịu được sức mài của hòn đá mài” (1).
Từ một chất liệu trang trí cổ truyền, các họa sĩ đã góp công chuyển thành chất liệu tạo hình hiện đại của nền mỹ thuật Việt Nam. Trong lịch sử tranh sơn mài Việt Nam hiện đại, người vẽ thành công đầu tiên chất liệu này có lẽ họa sĩ Trần Quang Trân, qua nhiều lần tìm tòi thể nghiệm, ông đã thành công. Tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự ra đời của tranh sơn mài là bức bình phong sáu cánh, mỗi cánh 110x25cm, vẽ năm 1932, tên là Bụi tre bóng nước. Bức bình phong này trước kia thuộc bộ sưu tập của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, sau bị thất lạc trong thời gian đầu kháng chiến chống Pháp.
Các họa sĩ thế hệ đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã học tập và sử dụng kỹ thuật tạo hình, phối cảnh, màu sắc, bố cục của hội họa phương Tây, kết hợp nhuần nhuyễn với nét những nét tạo hình mang tính dân gian, chứa đựng tinh thần dân tộc từ trong cách nhìn, cách cảm của mình đối với chất liệu sơn mài. Bảng màu của sơn mài truyền thống vốn ít ỏi nhưng mà sâu lắng, huyền ảo.
Trải qua gần một thế kỷ hình thành và phát triển của dòng tranh sơn mài, mỹ thuật Việt Nam có quyền tự hào về nghệ thuật sơn mài đã được nhiều nơi trên thế giới đón nhận. Một số tác phẩm đã trở thành bảo vật quốc gia của Việt Nam. Khi nhắc đến tranh sơn mài, chúng ta không thể không nhắc đến danh họa Nguyễn Gia Trí với kiệt tác Vườn xuân Trung Nam Bắc. Ông đã tìm tòi, nghiên cứu, để phối hợp lối in khắc với những phương thức sơn mài mới, đồng thời kết hợp những bút pháp tạo hình phương Tây. Đương thời, tranh của Nguyễn Gia Trí đã được nhiều nhà sưu tập trong và ngoài nước đặt mua. Nhiều nhà nghiên cứu, sưu tập đặt mua tranh từ khi ông mới chỉ có ý tưởng hoặc phác thảo. Trong tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí, chúng ta không thể chỉ đề cập đến kỹ thuật chất liệu mà phải xem xét cả phong cách tạo hình và nội dung cũng như chủ đề tác phẩm. Một trong những chủ đề quen thuộc là những thiếu nữ duyên dáng, nhàn tản trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng. Với chất liệu son, sơn then, vàng, bạc, vỏ trứng, sơn cánh gián, Nguyễn Gia Trí đã tạo cho tranh sơn mài một vẻ đẹp lộng lẫy, một chiều sâu bí ẩn, đưa kỹ thuật sơn mài lên đỉnh cao, khẳng định tầm quan trọng của chất liệu sơn mài trong nền mỹ thuật Việt Nam. Ông chú tâm ứng biến với chất liệu qua nhiều cấp độ khác nhau: đập vụn, tung vãi, dồn nét, rồi quy tụ chúng lại, cho chúng nhảy nhót tưng bừng trên tà áo dài thiếu nữ. Vẻ đẹp thiếu nữ được diễn tả một cách tài hoa, là hiện thân của khát vọng tự do, mộng mơ. Tranh sơn mài của ông như chuyển động bằng một sức mạnh nội tại bên trong kỳ ảo mà huyền diệu. Các chất liệu sơn mài đã cùng ông chu du vào tận cùng của khao khát sáng tạo cái đẹp.
Nguyễn Gia Trí luôn mở rộng tầm nhìn thẩm mỹ, đặt cái cổ kính bên cạnh cái tân kỳ, cái lộng lẫy sang trọng cạnh sự giản dị mộc mạc, ý tưởng hy vọng đặt bên cạnh sự hoài niệm... Tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí, đương thời, được hai họa sĩ tài năng Nguyễn Đỗ Cung và Tô Ngọc Vân không tiếc lời ca tụng ông trên báo Ngày nay, Thanh Nghị. Ở chất liệu này, thật khó để nhận ra ranh giới giữa mỹ nghệ và hội họa. Vì thế, tài năng của Nguyễn Gia Trí khiến Tô Ngọc Vân cảm động thực sự. Ông viết: “Đến cuộc thí nghiệm Nguyễn Gia Trí, lối sơn không còn là một mỹ nghệ nữa”.
Danh họa Nguyễn Tư Nghiêm, ngay khi đang học năm thứ ba, trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, đã có tác phẩm sơn mài gây chú ý trong giới hội họa, tiêu đề Người gác Văn Miếu, giải nhất triển lãm tại Salon Unique năm 1944. Một bức tranh sơn mài rất đáng chú ý khác của ông là Xuân hồ Gươm (70,4 x 150,7cm, 1957). Tác phẩm miêu tả lại những khoảnh khắc chào đón năm mới của quân và dân thủ đô Hà Nội bên hồ Hoàn Kiếm. Xa xa ở trung tâm tác phẩm là hình ảnh Tháp Rùa. Bên bờ hồ, hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ mặc quân phục, chiến sĩ công an cùng các thiếu nữ với tà áo dài thướt tha, yêu kiều, khoe sắc cùng mùa xuân. Các em nhỏ với những bộ quần áo mới đang nô đùa tíu tít. Tất cả tạo nên một khung cảnh nhộn nhịp tươi vui chào đón năm mới… Màu sắc trong tranh được thể hiện với màu truyền thống của sơn mài như vàng, bạc, đỏ son… Tuy nhiên trong thời gian này ông còn bổ sung cho tác phẩm những màu lam, lục, hồng…để tạo nét xuân tươi mới cho tác phẩm.
Tranh của danh họa Nguyễn Tư Nghiêm, phối hợp với nhiều loại bút pháp cùng với lối tư duy hiện đại, đã làm nên bản sắc riêng biệt độc đáo. Đường nét, màu sắc, nhịp điệu, không khí trong tranh sơn mài của ông tự do bay bổng, dựa theo những họa tiết trên trống đồng Đông Sơn của người Việt cổ, tranh tượng dân gian hay kiến trúc đình chùa... Nét trong tranh của danh họa Nguyễn Tư Nghiêm độc đáo ở cấu trúc hình và độ rung cảm của nội tâm. Kỹ thuật tạo hình của ông, cho dù hiện đại, vẫn gợi lên được những giá trị nghệ thuật sâu sắc đúc kết từ truyền thống văn hóa dân tộc. Phong cách biểu đạt nghệ thuật và tư tưởng nghệ thuật của ông đã ảnh hưởng tới nhiều thế hệ họa sĩ.
Nguyễn Tư Nghiêm dành cả cuộc đời mình cho việc, sáng tạo nghệ thuật. Những tác phẩm của ông đã đóng góp một phần không nhỏ cho ngôn ngữ tạo hình mỹ thuật Việt Nam. Nhiều ý kiến cho rằng danh họa Nguyễn Tư Nghiêm và Nguyễn Sáng đã có đóng góp đặc biệt cho ngôn ngữ tạo hình Việt Nam bằng những cách tân nổi trội.
Nguyễn Sáng tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1942, tranh của ông được thể hiện ở nhiều thể loại và chất liệu và với thể loại, chất liệu nào, ông cũng thành công; từ đề tài chiến tranh, tranh chân dung cho đến các chủ đề phụ nữ, hoa, phong cảnh… Mặc dù là họa sĩ đa tài, có thể sử dụng mọi chất liệu, tuy nhiên chất liệu ông yêu thích nhất là sơn mài. Cùng với Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tư Nghiêm, ông được coi là cây đại thụ của sơn mài Việt Nam hiện đại. Nếu như Nguyễn Gia Trí đưa sơn mài đến đỉnh cao của sắc giới thần tiên, thì Nguyễn Sáng đẩy sơn mài lên đến đỉnh cao qua những hình ảnh dung dị mộc mạc, chân chất, mang hơi thở của cuộc sống đời thường. Ông là người tìm tòi, khám phá và bổ sung vào tranh sơn mài những mảng màu như vàng, xanh, diệp lục…
Nhắc đến Nguyễn Sáng là nhắc đến tác phẩm sơn mài Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ (112x180cm, 1963), được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2013 và hiện được lưu giữ, trưng bày tại Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam. Tác phẩm dựng lại một thời khắc hào hùng của những người chiến sĩ Điện Biên ngay tại chiến trường với 3 nhóm nhân vật chính, phụ. Nhóm nhân vật trung tâm gồm ba chiến sĩ trong đó có một chiến sĩ đang bị thương trên đầu quấn băng với khẩu súng trong tay. Nhóm ba người này được liên kết chặt chẽ với hai chiến sĩ khác phía bên phải bức tranh bằng một cái bắt tay đầy quyết tâm. Góc trái là một chiến sĩ đang dìu đồng đội bị thương cho thấy ranh giới của sự sống và cái chết thật mong manh. Phía xa xa là một chiến sĩ đang hối hả luồn lách qua chiến hào ra trận. Những hình đó chính là động lực và nhấn mạnh thêm bối cảnh khẩn trương của cuộc chiến. Bức tranh có thể xem là bản hùng ca của dân tộc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, là hình ảnh tượng trưng cho tinh thần cách mạng cao cả.
Cái chất vạm vỡ, khỏe khoắn, cương trực, mạnh mẽ và thẳng thắn của con người ông, của vùng đất Nam Bộ nơi ông sinh ra, hòa quyện vào nhau, hòa quyện vào tác phẩm, hiện lên trên từng chi tiết của các phẩm, thống nhất từ tạo hình, bố cục đến màu. Nhất là tạo hình các nhân vật, phát triển theo chiều ngang, cường tráng, vạm vỡ, hình khối chắc khỏe, tiết giản các đường cong, lượn, nhiều đường thẳng. Chỉ có ba tông màu chủ đạo của sơn mài là son, vàng bạc và then, kết hợp với những mảng miếng lớn, khúc chiết, rõ ràng, mạch lạc, bố cục các nhân vật dàn hàng ngang, gần như loại bỏ luật xa gần, tương quan sáng tối ước lệ của người phương Đông, cũng không gò theo ánh sáng của người phương Tây mà khai thác theo lối đồ họa mảng phẳng… đã làm nên một tác phẩm có một không hai về chủ đề cách mạng Việt Nam.
Nguyễn Sáng là một trong số ít những họa sĩ có nhiều tác phẩm sơn mài đẹp về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam. Ngôn ngữ hội họa của ông có tầm khái quát cao, tiếp thu nhuần nhuyễn nghệ thuật truyền thống kết hợp với thành tựu nghệ thuật hiện đại phương Tây.
Ngày nay, nghệ thuật tranh sơn mài Việt Nam vẫn đang tiếp tục và phát triển với nhiều lối biểu hiện và tìm tòi mới, mang đậm dấu ấn và tính sáng tạo của từng cá nhân nghệ sĩ. Một số họa sĩ trẻ đã đưa thêm nhiều các loại vỏ ốc, vỏ trai, vỏ sò vào tranh để tạo ra những hiệu quả mang tính biểu hiện trừu tượng nhiều hơn là mô tả thực. Công chúng yêu nghệ thuật tranh sơn mài có thể nhận diện được sự đa dạng, phong phú được tạo ra từ các loại chất liệu mới được tìm tòi. Một số họa sĩ như Lê Văn Thìn, Bùi Hữu Hùng, Nguyễn Quốc Huy… đã hình thành nên một cách nhìn hết sức thực tế, cụ thể nhưng cũng vô cùng tinh tế và sâu sắc của tranh sơn mài hiện nay. Có thể lấy bức tranh Tình yêu màu vàng của họa sĩ Lê Văn Thìn làm ví dụ. Với việc đục đẽo bề mặt vóc theo lối làm đồ họa, cùng với các chất liệu như vỏ sò, trai, ốc kết hợp với những màu son, then, màu vàng, bạc, sau đó họa sĩ lại dùng màu đổ tràn lên mặt tranh nhằm xóa bỏ hết không gian cũng như những yếu tố tạo hình rồi mới mài để tìm kiếm cái tưởng như có mà lại không, cái không mà lại có. Chính vì cái lẽ đó đã tạo cho tranh sơn mài của họa sĩ vừa có tính truyền thống vừa mang hơi thở đời sống sáng tác mỹ thuật đương đại Việt Nam.
Hay trong tác phẩm Chiều Văn Miếu, lối vẽ của họa sĩ Nguyễn Quốc Huy đã làm toát lên được một góc nhỏ không gian cổ kính riêu phong của Văn Miếu và ký ức xa xưa của Hà Nội. Với kỹ thuật sơn mài truyền thống, vẽ nhiều lớp sơn dày mỏng khác nhau, lớp sơn này chồng lên lớp sơn kia, họa sĩ đã mang đến người xem vẻ đẹp sang trọng nhưng đằm thắm của sơn mài Việt.
Một số sáng tác kể trên cho thấy khả năng sử dụng sơn mài để diễn tả theo ngôn ngữ hội họa là rất đa dạng và phong phú. Các thế hệ họa sĩ Việt Nam sẽ vẫn còn tiếp tục tìm tòi và thể nghiệm nhiều hơn nữa với chất liệu sơn mài, để đưa tranh sơn mài nên tầm cao hơn. Những người yêu mến quan tâm đến nghệ thuật tranh sơn mài Việt Nam cũng đang đòi hỏi, chờ đợi các họa sĩ sơn mài đương đại Việt Nam có nhiều ý tưởng, những tìm tòi đột phá, đưa ra những cách tân mạnh mẽ mới hơn nữa để đáp ứng nhu cầu nội tại của nghệ thuật đương đại của Việt nói chung và nghệ thuật tranh sơn mài nói riêng.
___________
1. Trích Nguyễn Hải Yến, Tranh sơn mài Việt Nam, Tạp chí Mỹ thuật, tháng 12 - 2016.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 397, tháng 7 - 2017
Tác giả : TRẦN QUỐC BÌNH