Tọa lạc bên dòng sông Thao hiền hòa, Nghè Văn Lang (Hạ Hòa, Phú Thọ), trông thật rêu phong, cổ kính. Đây là nơi thờ hai vị tướng giỏi của Hai Bà Trưng có công đánh đuổi giặc, bảo vệ bờ cõi - một di tích lịch sử văn hóa có giá trị.
Lễ tế tỉnh sinh ông Hắc ngưu tại đền Nghè Văn Lang
Qua cửa tam quan, chúng tôi bước vào không gian chính điện của nghè. Dấu mốc thời gian còn lưu lại qua rêu phong bám trên mái và những bức tường cùng rồng phượng uốn mình trên mỗi cây cột. Qua lời tương truyền của các thế hệ, nghè được xây dựng cách đây hơn 2.000 năm, từ thời Hai Bà Trưng nổi dậy dấy binh đánh giặc. Nghè được nhân dân lập nên để thờ hai chị em Lê Ả Lan và Lê Anh Tuân vốn là hai vị tướng của quân khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Ngược dòng lịch sử, theo huyền tích và Ngọc phả lưu tại đình Văn Lang, từ thời xa xưa, hai vợ chồng ông bà họ Lê từ vùng Đường Lâm thuộc đất Phong Châu hiếm muộn về con cái nên đã ngược dòng sông Thao đến ngôi đền Nam Sang, trang Văn Lang, thuộc đất Thao Giang để cầu tự. Đến ngôi đền thiêng, ông bà ngủ tại đền một đêm thì bà vợ nằm mộng thấy có một người đàn bà đến đưa cho một cành hoa. Tỉnh dậy, biết đây là điềm may nên ông bà trở về quê mong gặp điều mừng. Thời gian trôi qua, ông bà đã sinh được hai con (một gái và một trai), đặt tên là Ả Lan và Anh Tuấn. Hai chị em lớn lên đều khôi ngô tuấn tú, thông minh và khỏe mạnh lạ thường. Ông bà đã cho con đi học và đón thầy về dạy võ nghệ, kiếm cung. Năm hai chị em 17-18 tuổi, trời đại hạn, ruộng đất nứt nẻ, lúa khoai đều mất mùa, nhân dân khắp nơi đói kém. Trong hoàn cảnh ấy, bố mẹ lại bị quan quân đánh đập, ốm nặng mà chết, hai chị em đi giao du khắp nơi trong thiên hạ để liên kết với các anh hùng hào kiệt.
Được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, hai chị em đã cùng mọi người kéo về Hát Môn, Phúc Thọ - Sơn Tây được giao làm tướng tiên phong, đem quân đánh giặc ở xứ Thao Giang. Bằng hai cánh quân thủy bộ, đội quân của Lê Ả Lan - Lê Anh Tuấn đi đến đâu, quan quân Đông Hán tan tác đến đó. Khi tới trang Văn Lang, kẻ thù cũng cuống cuồng rút chạy. Lê Ả Lan đem quân đóng giữ vùng Ao Trời còn Lê Anh Tuấn được giao làm phó tướng, đóng quân ở thung lũng chân núi. Ngoài ra, hai chị em còn cho lập đồn trại ở bến đò và bốn bên doanh trại; tổ chức khai phá đầm lầy rộc rậm và phì nhiêu. Tháng giêng năm ấy, Lê Ả Lan cho dân giã gạo nếp, thổi xôi, làm bánh dày, bánh út, mổ trâu mở hội múa kiếm khao quân. Sau đó, hai chị em được lệnh tiến xuống giải phóng Luy Lâu (Bắc Ninh). Trong khi chiến đấu, Lê Anh Tuấn bị thương nặng ở chốn trận tiền.
Sau chiến thắng, hai chị em được phong ấp ở đất Đường Lâm và trở lại đóng ở Văn Lang. Mấy năm sau, vào ngày 25 tháng 8 âm lịch, cả hai chị em đều mất ở núi Ao Trời (Quân Khê). Lời truyền còn kể rằng, khi thắng trận trở về đất Văn Lang, khi nhân dân mổ trâu vui mừng đón hai chị em tướng quân thì trời nổi cơn giông bão, mưa to, hai chị em Ả Lan và Anh Tuấn đã đều hóa, để lại hai nấm đất mối đã đắp cao.
Sau khi hai vị mất, dân trong khu lập tức báo tin về kinh đô. Trưng nữ vương vô cùng thương tiếc, xuống chiếu cho Văn Lang trang lập miếu thờ và ra sắc phong cho hai vị là Nhất phong Ả Lan Nương Đức Hạnh Đoan Trang Công Chúa và tặng phong "Hằng Nga Uyển Mỵ Trinh Phụ Phu Nhân"; phong thần hiệu cho Lê Anh Tuấn: Lê Anh Tuấn Hiển Vinh Uy Dũng Đại Vương và tặng phong: "Tế Thế Hộ Quốc An Dân, Phu Vạn Quảng Đại Cao Minh, hiệu Hựu Hùng Chấn Đại Vương Thượng Đẳng Thần"...
Từ đó về sau, để tỏ lòng tôn kính hai vị tướng quân, nhân dân xã Văn Lang có ban khánh tiết giúp địa phương quản lý, bảo vệ trông coi và tổ chức tế lễ hương khói các ngày tuần ngày tiết như ngày mồng 10 tháng Giêng làm "Lễ cầu phúc rước nước" phục vụ cho việc thờ cúng quanh năm. Trong Rước nước, có gắn hèm tục là đánh trận giả để tái hiện hình ảnh Hai Bà Trưng đánh giặc; Lễ tiệc ngày sinh hai vị vào ngày 12 tháng Giêng (âm lịch); Hèm tục cúng lợn đen múa hát 3 ngày liền; Lễ tiệc khao quân vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch); Hèm tục mổ trâu đen "gọi là bì oa trữ nhục" tức là lấy da trâu căng làm nồi nấu thịt.
Nghè quay hướng Đông Nam, đó là phương bát nhã, tức trí tuệ, mang ý nghĩa cầu mong trí tuệ cho khắp mọi người, bởi nhờ đó mà diệt trừ được mọi ngu tối, mầm mống của tội ác. Nghè gồm có 3 điện, mở đầu bằng những cột trụ tượng trưng cho những trụ nối trời và đất, để truyền sinh khí từ trên xuống cho đất và nước. Biểu hiện trên tầng trời bằng 4 con phượng, vì phượng là biểu tượng của bầu trời, đầu đội công lý; mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng; lưng cõng mặt trời và đức hạnh; cánh là gió; lông là cây cỏ; đuôi là tinh tú; chân là đất.
Hai cột trong được thiết kế hình lồng đèn, trên đắp hình lân - linh vật biểu hiện cho sức mạnh thần linh, cho trí tuệ, cho sự trong sáng nên đứng trên đỉnh cột. Ngoài ra, còn hai tướng đứng trấn hai bên để tăng sự uy linh. Đặc biệt, nghè còn giữ được 2 bộ kiệu bát cống đầy đủ và một bộ kiệu rước nước. Những di vật này là loại rất hiếm thấy, kể cả ở các đình miếu miền xuôi. Trên các cổ kiệu này được chạm rồng, lân, hổ phù, hoa, cỏ... mang đầy chất linh thiêng trong việc cầu phúc.
Nghè Văn Lang, di tích lịch sử quốc gia trên vùng quê Hạ Hòa
Tuy được xây dựng từ lâu đời nhưng nghè có kiến trúc khá đặc biệt. Nghè được bố trí thành ba gian nối tiếp nhau. Hai gian ngoài (gian tiền tế) treo những bức hoành phi câu đối, để gươm đao, cờ kiệu và là không gian để dân làng đến tế lễ hằng năm. Gian trong cùng (gian thượng điện) thờ tự long ngai hai chị em tướng quân. Nghè nhìn ra cánh đồng lúa bát ngát phì nhiêu, hai bên đều có sông Hồng và sông Thao uốn mình. Trước đây, Nghè lưu giữ 7 đạo sắc do các triều đại quân chủ phong nhưng do chiến tranh, thiên tai, hiện nghè chỉ còn lại hai đạo sắc. Với ý nghĩa lịch sử lớn lao đó ngày 28/1/1992, nghè được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ VHTTDL) cấp bằng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Tưởng nhớ công lao của hai chị em họ Lê đã xả thân vì sự bình yên của đất nước, nhân dân quanh vùng Văn Lang đã dành tâm huyết và gửi gắm sự tài hoa của mình vào việc thiết kế và trang trí nghè. Đến nghè, chúng tôi vẫn nhận ra sau lớp rêu phủ là những hàng chữ Nho, câu đối còn nguyên mực, rồi những rồng, phượng, lân, hổ chạm trổ trên những cột, những bức tường. Đặc biệt, ở hai bên bàn thờ long ngai của hai vị tướng, có chạm hai bức tượng voi, trên lưng có ngai vàng tượng trưng cho hai vị chủ soái là Hai Bà Trưng. Đồng thời, ở mỗi góc của bức tường còn thờ tượng hổ, biểu tượng cho sơn thần nơi đây.
Hằng năm, cứ vào mồng 10 tháng Giêng, lễ hội nghè được dân làng Văn Lang tổ chức. Dù ăn đâu, làm đâu, những người con đất Văn Lang đến ngày này cũng trở về vui hội. Đúng 0 giờ ngày mồng 6 rạng ngày mồng 7 tháng Giêng âm lịch, người dân làm lễ mở cửa nghè, cúng cỗ chay và tế một con lợn đen. Sáng hôm sau nghè đóng cửa, chờ đến đúng ngày mồng 10 thì mở hội. Khai hội là lễ rước nước từ sông Hồng về để tắm và cúng tướng, sau đó là lễ tế thần cùng các trò chơi truyền thống. Sở dĩ có tục rước nước về tắm cho tướng vì hôm đó đúng là ngày hai chị em tướng sinh ra. Sau lễ rước nước là lễ Mộc Dục, tức lễ tắm rửa mộc dục ngai thờ.
Tư liệu ghi rằng : “Công việc này được làng chọn lựa rất kỹ lưỡng, thông thường là các cụ già có tín nhiệm đảm đương. Họ thắp hương, dâng lễ và tiến hành công việc một cách chu đáo. Mộc Dục được tắm hai lần nước: Lần thứ nhất là nước làng vừa rước về; lần thứ hai là nước ngũ vị đã được chuẩn bị sẵn từ trước. Sau lễ Mộc Dục là đại lễ, nghi thức trang trọng nhất để dân làng dâng cúng các vật phẩm như: xôi, thịt, bánh trái... Việc này được dân làng bàn bạc kỹ lưỡng để chọn ra những người có uy tín vào ban tế gồm: Chủ tế, bồi tế, đông xướng, tây xướng...”
Đến tháng 3 âm lịch - dịp kỷ niệm hai tướng chiến thắng trở về đất Văn Lang, dân làng chọn ngày tốt lại tập trung để tế trâu. Đã thành lệ, cách đó khoảng một tháng, người ta đi chọn trâu. Trâu tế tướng phải to, béo, không bệnh tật, khoáy phải đều chằn chặn và phải được mua ở nhà lành, không trộm cắp, không ốm đau và không có người chuẩn bị sinh nở. Khi trâu được mua về nếu là trâu dữ cũng trở nên hiền lành và không đánh nhau với trâu khác nữa. Tương truyền, những đêm trâu buộc cạnh đền chuẩn bị tế lễ, hổ về ngồi chầu chực bên cạnh nhưng chỉ ngắm nhìn mà không xông vào vồ. Trâu được đưa vào gian tiền tế để tế sống theo nghi lễ sau đó mới đem mổ và làm mâm cúng. Phong tục tế trâu đến nay vẫn được dân làng xã Văn Lang duy trì như một nét đẹp văn hóa nơi đây.
NGUYỄN THẾ LƯỢNG
Nguồn: Tạp chí VHNT số 549, tháng 10-2023