Đặc sắc lễ hội dân gian truyền thống ở vùng đất Tổ

Lễ hội dân gian truyền thống vùng đất Tổ là nét đẹp, nét đặc sắc trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Phú Thọ nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, lễ hội dân gian nơi đây giữ một vai trò rất đặc biệt trong kho tàng lễ hội dân gian Việt Nam, mang đậm bản sắc dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn biểu thị tinh thần đại đoàn kết cộng đồng các dân tộc. Đó là di sản vô cùng quý báu của rất nhiều thế hệ cha ông để lại cho hậu thế. Lễ hội ở Phú Thọ phần lớn là hội làng song nhiều lễ hội có tầm ảnh hưởng, có sức lan tỏa trong một vùng rộng lớn, chẳng hạn lễ hội Đền Hùng mang tính cả nước được kết tinh từ nét đẹp các hội làng của vùng đất Tổ trong một diễn trường rộng lớn.

Lễ hội dân gian ở vùng đất Tổ được tổ chức theo thời gian âm lịch, chủ yếu vào dịp ba tháng mùa xuân. Những ngày đầu xuân năm mới, cùng với các hoạt động vui Tết cổ truyền của dân tộc các lễ hội diễn ra trong bầu không khí rất náo nức phấn khởi trong tiết trời ấm áp càng làm cho bức tranh quê thêm sống động, lòng người thêm rộn vui. Có thể nói, khái niệm lễ hội mùa xuân đã xuất hiện từ lâu trong đời sống văn hóa tâm linh của người dân đất Việt như một quy luật tự nhiên tất yếu. Hầu hết các lễ hội dân gian ở ta đều xuất phát từ tín ngưỡng nông nghiệp với nghề trồng lúa nước mà Phú Thọ là một vùng canh tác từ cổ xưa. Theo thống kê mới nhất của Sở VHTTDL Phú Thọ, vùng đất Tổ có 230 lễ hội truyền thống, trong đó có 198 lễ hội tổ chức vào ba tháng mùa xuân.

Về  vùng đất Tổ, ta dễ tìm thấy lễ hội nông nghiệp mang tính thuần túy, các lễ thức, tục lệ gắn với nghề nông của người Việt cổ. Trước hết, phải kể đến lễ thức trình nghề mà mỗi nơi có tên gọi khác nhau như trò tứ dân, trò bách nghệ khôi hài thường được tổ chức vào dịp đầu xuân để cầu phúc cầu may cho nghề nghiệp. Hội làng Tứ Xã ở xóm Trám (Lâm Thao), trong lễ thức trình nghề, dân làng tổ chức rước “lúa thần” - “lúa thần” là một cụm lúa giống hạt mập căng có đoàn người đi rước với các vai người vác cày, người dệt vải, thợ mộc, thầy đồ, học trò, người đi buôn… bà con vừa đi vừa làm các động tác nghề nghiệp, hát những câu về nghề và diễn các động tác khôi hài để gây cười. Hoặc lễ rước ông Khưu bà Khưu ở Thanh Đình (Việt Trì) biểu hiện rất rõ ý niệm phồn thực vốn phổ biến trong nghi lễ và phong tục của các cư dân nông nghiệp trồng lúa nước xuất phát từ quan niệm giao hòa âm/dương/đực/cái, ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây lúa, mùa màng. Hội vào mùa xuân thường trình diễn các lễ nghi trò diễn mang tính phồn thực. Đó là trò cướp kén (kén làm theo hình dương vật và âm hộ gắn vào nhau) của dân làng Dị Nậu và Hương Nha (huyện Tam Nông) để giữa cửa sân đình, ai cướp được đều tin rằng năm đó mình sẽ may mắn, được mùa, sinh con đẻ cái:

Ai cướp được con kén chày kình

Ấy thực nam đinh công hầu bá tước

Ai mà cướp được con kén mo dài

Ấy thực tài cung phi hoàng hậu

Con con cháu cháu tử thịnh tôn da

Ấy là dân ta thịnh người thịnh vật

Rồi trò hú tùng dí vừa rước cụm lúa, nắm xôi vừa làm theo động tác múa dí dương vật - âm vật vào nhau theo nhịp trống “tùng”. Trò nam nữ, trẻ già trong hội xô đẩy, đùa cợt nhau gọi là hội chen với mong ước già mạnh khỏe trẻ dẻo dai, của đồng làm ra, của nhà nên; trò “bắt chạch trong chum” ở làng Tiên Du (huyện Phù Ninh) nam nữ một tay quàng tay quàng vai, một tay bắt chạch trong chum vừa đùa nghịch vừa hát huê tình.

Phổ biến nhất trong hội xuân là hát giao duyên trai gái: Hát Xoan ở Kim Đức, An Thái, hát Ghẹo ở Thanh Uyên, Nam Cường (huyện Tam Nông), Thục Luyện, Hùng Nhĩ (huyện Thanh Sơn)…

Ở Phú Thọ, có nhiều hội làng truyền thống khá đặc sắc, trong đó phần nghi thức lễ được đặc biệt chú trọng: Lễ rước tiếng hú ở Chu Hóa, lễ cúng cung tên ở Phú Lộc, lễ đánh cá thờ ở Đào Xá, lễ gọi vía lúa ở Thanh Uyên, Đồng Lạc; lễ rước cầu ở Bạch Hạc, lễ cúng củ mài cùng mật ong ở Hương Nộn, lễ mở cửa rừng ở Minh Hòa… đã phản ánh khá rõ đặc trưng tín ngưỡng bản địa với hoàn cảnh địa lý và điều kiện sinh hoạt của bà con. Đó là bóng dáng còn lại của thời kỳ Hùng Vương (săn bắt và hái lượm), liên quan đến tín ngưỡng cổ xưa ở vùng đất Tổ. Do nhận thức còn hạn chế, người nông dân xưa rất tin vào Trời, Đất, Sông, Núi. Ở các làng, thường có miếu thờ thiên thần, thờ nhân thần, thủy thần, sơn thần và một số làng đã tôn các vị thần ấy làm thành hoàng làng. Lễ hội dân gian cổ truyền ở Phú Thọ đã phản ánh hiện tượng này khá sâu sắc. Lế tế thần nông, lễ hạ điền (xuống đồng) rất được người dân quan tâm và họ tin rằng trời, đất, sông, núi đã che chở cho sự tồn tại và phát triển của mình. Người làm nghề nông rất cần nước, cần nắng để làm ăn. Lễ rước nước ở Văn Lang (Hạ Hòa) mở đầu cho các ngày hội với mục đích để tắm tượng thần và rửa đồ tế khí nhưng đây cũng là hình thức cầu mùa của cư dân trồng lúa nước. Lễ gọi vía lúa, lễ khai cung… xuất phát từ ý thức cầu nguyện mùa màng tươi tốt, việc săn bắn được thuận lợi.

Tín ngưỡng “Uống nước nhớ nguồn” là một đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Lễ hội Đền Hùng vào mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm biểu hiện đầy đủ truyền thống đó;

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng Ba

Khắp miền truyền mãi câu ca

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm

Vào dịp lễ hội, hàng chục vạn đồng bào cả nước nô nức trẩy hội Đền Hùng thắp nén hương thơm tưởng nhớ công ơn dựng nước của các Vua Hùng, tổ tiên cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nét đẹp truyền thống đạo lý đó đã trở thành ý thức hệ văn hóa tinh thần và tín ngưỡng dân tộc độc đáo: Thờ cúng ông bà tổ tiên trong dòng họ và thờ cúng Tổ Tiên chung của cộng đồng. Đền Hùng và lễ hội Đền Hùng trở thành biểu tượng và điểm hội tụ tâm linh, biểu thị tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Lễ hội là hoạt động của một tập thể người. Không có con người tham gia tổ chức thì không thành hội được. Ngoài ra còn phải kể đến sự đóng góp, xuất hiện của người xem thì hội mới càng thêm kết quả. Nếu như lễ được tổ chức có tính quy phạm nghiêm ngặt ở chốn đình trung thì trái lại, hội là nơi tổ chức sinh hoạt dân dã phóng khoáng diễn ra trên bãi sân để dân làng cùng bình đẳng vui chơi với hàng loạt trò diễn, mọi người đều có thể tham gia. Đến hội, mọi người được vui chơi thỏa thích, không bị ràng buộc bởi lễ nghi tôn giáo, đẳng cấp và tuổi tác. Sau những ngày làm ăn vất vả lam lũ, người dân đón chờ ngày hội như đón chờ một niềm vui thiêng liêng với một tâm trạng háo hức kỳ lạ. Đến hội, họ được tắm mình trong bầu không khí tinh thần cảm động, hồ hởi sảng khoái và tự nguyện. Ngoài phần vui chơi giải trí, gặp gỡ bạn bè, anh em, người về dự hội còn cảm thấy mình được “may”, được “khước”, được “lộc thánh”, “lộc thần”. Điều này chỉ có trong ngày hội và ai muốn được thì phải đến tận nơi. Vì vậy, hội rất đông, rất nhộn nhịp. Nhịp sống ở làng xã ngày có lễ hội cũng tưng bừng nhộn nhịp hẳn lên, những quần áo đẹp được bà con mặc để khoe với thiên hạ, việc ứng xử với nhau trong ngày hội giữa người dân với nhau mềm mại, chân tình hơn, có văn hóa hơn ngày thường. Chính vì thế mà hội làng trở thành một sinh hoạt văn hóa cộng đồng luôn cuốn hút mọi tầng lớp dân cư trong xã hội tham gia.

Lễ hội rước voi Đào Xá, Thanh Thủy

 

Hội hè thường đi đôi với đình đám. Xưa kia, việc ăn uống trong ngày hội là điều không thể thiếu. Vì nó không phải là bữa tiệc thông thường mà chính là sự thụ hưởng lễ vật của hội. Chỉ khi mọi nghi thức tế lễ, mọi cuộc trình diễn đã xong thì người ta mới hạ cỗ và chia phần. Đây là hành động nghi lễ văn hóa, hưởng vật phẩm tế lễ là hưởng lộc thánh; bữa ăn tại chốn đình trung là biểu hiện của tinh thần bình đẳng, dân chủ theo lệ làng. Khẩu phần thực tế có thể nhỏ bé nhưng lại mang ý nghĩa rất lớn, thể hiện sự công bằng trong lối ứng xử cộng đồng. Điều đó đem lại sự phấn khích, hoan hỉ cho mọi người dân dự hội.

Ngày hội biểu thị sức mạnh cộng đồng cũng là dịp biểu thị mối giao tiếp ứng xử tốt đẹp giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng và cộng đồng và cá nhân. Hội làng là điểm sáng hội tụ các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật tôn giáo, tín ngưỡng của dân làng. Người dân tham gia một cách tự nguyện, họ cảm thấy tự hào về điều này. Tâm lý coi hội làng là “hội của mình” ở mọi người dân trong làng xã là một thực tế không thể phủ nhận. Hội làng cũng là cơ hội tốt để trình bày tinh hoa văn hóa của người nông dân. Thời quân chủ, nhiều làng quê Phú Thọ gần như một cái vỏ bọc khép kín do đặc thù nông nghiệp độc canh tự cung, tự cấp. Cấu trúc của làng cũng như hàm ý ấy: lũy tre bao bọc quanh làng, cổng làng, cổng xóm. Sự khép kín ở phương diện nào đó cần thiết cho bản sắc làng, song cuộc sống tiếp diễn luôn uyển chuyển và có quy luật. Làng vẫn phải nối tiếp và cởi mở với các làng lân cận. Trước hết là hệ thống thủy lợi của nghề trồng lúa nước: chung thửa ruộng, chung cánh đồng, tất cả các làng cùng chung dòng chảy. Mạng lưới chợ quê để tiêu thụ nông sản thừa của làng cũng là một hình thức giao lưu khác. Trong một hoặc nhiều hoàn cảnh đó, sinh ra tục kết chạ nhiều khi rất thiêng liêng, gắn bó. Tục kết chạ đã trở thành sinh hoạt văn hóa, một đạo lý truyền thống trong khá nhiều làng quê vùng trung du. Tục kết chạ đề cao lễ, nghĩa, đức. Dân hai làng đều suy tôn nhau là dân anh và tự mình nhận là dân em. Khi có khó khăn trong cuộc sống, hai làng giúp nhau hết mình, khi tổ chức hội làng thì mời nhau sang dự, ở Cao Mại - Hy Cương kết nghĩa với nhau do nơi này thờ vua Hùng (Hy Cương), nơi kia thờ con gái và con rể vua Hùng (Cao Mại). Kết nghĩa để tương trợ nhau trong sản xuất: Nha Môn và Tiên Du có ruộng xâm canh, bảo vệ mùa màng cho nhau gọi là “giao lưu chi nghĩa” (tình nghĩa xóm làng). Kết nghĩa để tăng sức mạnh chống giặc cướp bảo vệ an ninh chung: hai làng Cao Mại - Nam Cường chống giặc Cờ đen. Kết nghĩa trong các làng Xoan, làng Ghẹo ở Phú Thọ như làng Nam Cường kết nghĩa với làng Hùng Nhĩ, Thục Luyện, phường xoan An Thái - Phượng Lâu (Việt Trì) kết nghĩa với làng Đức Bác - Sông Lô, làng Kim Thượng - Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc). Tục kết chạ đã xây dựng lên mối liên hệ vững vàng giữa các làng với nhau để cuối cùng hình thành lên mối liên kết truyền thống làng nước. Đây cũng là điều kiện để cha ông ta gìn giữ  bản sắc dân tộc. Nếp sống này biểu dương tinh thần và sức mạnh cố kết cộng đồng, bộc lộ bản sắc và sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân dân: lấy làng là cơ sở cho nước, cũng như ở mỗi làng gia đình và dòng họ là sức mạnh của làng.

Hội làng đã bảo lưu được văn hóa truyền thống, văn minh, văn hiến vùng đất Tổ, biểu hiện ở nếp sống với những ý thức cơ bản, ý thức về cội nguồn, đồng loại, ý thức về mỹ tục (trong ứng xử kết chạ, tinh thần trọng lão, tinh thần dân chủ, công bằng), ý thức về tài năng văn hóa, nghệ thuật, thể thao, kỹ thuật cổ truyền. Hội làng mang ý thức xã hội nhân văn to lớn và bền vững đồng thời với giá trị thẩm mỹ nên có tác dụng rõ rệt và cụ thể: nội dung của hội làng được coi như lý tưởng cuộc sống để người dân noi theo và hướng tới. Kho tàng lễ hội dân gian truyền thống vùng đất Tổ cho ta thấy lại hình bóng xã hội của thời đại Hùng Vương. Đó là văn hóa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước mà tiêu biểu là tín ngưỡng phồn thực, một tín ngưỡng cầu mong sinh sôi nảy nở của con người vật nuôi, cây trồng. Đó là phong tục thuần hậu chất phác của con người vùng đất cội nguồn. Đó là hành trạng công tích của các tướng lĩnh thời Hùng Vương, các nhân vật lịch sử nổi tiếng, những người có công xây dựng làng xóm, quê hương trên nhiều lĩnh vực được nhân dân thờ phụng.

Kéo lửa thổi cơm thi Gia Dụ huyện Tam Nông 

 

Tóm lại, nét đẹp, nét độc đáo của lễ hội dân gian truyền thống trên quê hương đất Tổ đã và đang góp phần làm đẹp, làm phong phú thêm kho tàng lễ hội Việt Nam. Tính chất nổi bật nhất là đều gắn với các sự tích của thời kỳ Hùng Vương dựng nước như truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh, Vua Hùng dạy dân cấy lúa, sự tích bánh Chưng, bánh Dày… Mặt khác, các lễ hội còn phản ánh nhiều sự kiện lịch sử giữ nước của các anh hùng dân tộc đã lãnh đạo nhân dân đứng lên chống giặc ngoại xâm như khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Đinh Bộ Lĩnh, Lý Thường Kiệt… cùng những tín ngưỡng cổ xưa của cư dân trồng lúa nước. Mỗi lễ hội, mỗi trò diễn đều có ý nghĩa giáo dục nhắc nhở mọi người luôn ghi nhớ công ơn dựng nước và giữ nước của các vua Hùng và các bậc tiền nhân, các anh hùng dân tộc…

Xuân Nhâm Dần 2022 đã về đem theo nhiều mong ước, hy vọng năm mới nhiều an lành, đại dịch COVID-19 sớm được khống chế để mọi hoạt động xã hội trở về trạng thái bình thường mới; các lễ hội dân gian ở vùng đất cội nguồn dân tộc tiếp tục lan tỏa với nhiều giá trị đặc sắc, góp thêm những mạch nguồn tốt lành vào dòng chảy văn hóa dân tộc, đem lại sự đa dạng phong phú trong đời sống tinh thần của người dân đất Việt.

 

TRẦN VĂN QUANG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 489, tháng 2-2022

 

;