• Văn hóa > Cổ truyền

TRÒ MA TRONG LỄ TANG CỦA NGƯỜI MƯỜNG THANH HÓA

Thanh Hóa là tỉnh có nhiều tộc người sinh sống, trong đó người Mường có số dân đông thứ hai, sau người Việt, tập trung ở các huyện Cẩm Thủy, Bá Thước, Ngọc Lặc, Lang Chánh... Theo các nguồn tư liệu, người Mường Thanh Hóa có nguồn gốc xuất phát từ ba nguồn: Mường bản địa, Mường do quá trình Việt hóa hay Thái hóa, Mường Bi di cư từ Hòa Bình vào.

TỪ NHIÊN THẦN ĐẾN NHÂN THẦN VÀ VẤN ĐỀ TRUYỀN THUYẾT HÓA THẦN THOẠI

Tín ngưỡng bản địa Việt Nam chủ đạo là tín ngưỡng đa thần với đặc trưng sùng bái vật linh. Bắt nguồn từ tín ngưỡng ấy nên ở khắp các cộng đồng cư dân, người ta thờ cúng thần tự nhiên, đó là các thần động vật với nhiều chủng loại khác nhau, trong đó có thần thuộc thế giới bầu trời như: các loài chim thần, có thần thuộc thế giới mặt đất với các loài vật linh như: hổ, trâu, gà, gấu; có thần động vật thuộc thế giới mặt nước như: rắn, giải, giao long, thuồng luồng, rồng, rùa, cá; các loài thực vật được linh thiêng hóa thành thần như: cây cối, hạt lúa, hạt ngô, củ khoai, quả bầu; các dạng vật linh như: nước, đất, đá, rừng, núi, lửa; các hiện tượng linh như: mây, mưa, gió, sấm, chớp, sóng… Các câu chuyện kể về những vị thần tự nhiên này đã tạo ra một hệ thần thoại hết sức phong phú. Tuy nhiên, theo dòng chảy của thời gian và trải qua chiều rộng của không gian, các truyện kể này không còn nguyên hình, nguyên dạng như khởi nguyên nữa, một bộ phận nhân vật nhiên thần không nhỏ đã có sự chuyển hóa thành nhân thần và nửa nhiên thần, nửa nhân thần. Sự chuyển hóa đó diễn ra theo quy luật nội tại và khách quan, làm cho biến đổi cả về mặt thể loại của truyện cổ, theo đó thể loại thần thoại đã được truyền thuyết hóa một cách mạnh mẽ.

KHOA BẢNG VÙNG VEN HỒ TÂY VÀ PHỤ CẬN TRƯỚC NĂM 1919

Năm Canh Tuất 1070, Lý Nhân Tông cho xây dựng Văn Miếu làm nơi dạy học cho các hoàng thái tử. Năm 1075, triều đình mở khoa thi Nho học đầu tiên. Thời gian sau đó, các kỳ thi Nho học được nhà nước phong kiến tổ chức đều đặn 4 năm một lần, rồi từng bước hoàn thiện. Đến đầu triều Khải Định chế độ khoa cử Nho học bị bãi bỏ sau kỳ thi hương cuối cùng vào năm 1918, kỳ thi hội cuối cùng năm 1919. Trong suốt thời phong kiến Việt Nam, giáo dục, khoa cử Nho học tuy từng thời có biến động khác nhau nhưng các triều đại đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức học tập, thi cử để tuyển chọn số lượng lớn trí thức, quan lại cho nhà nước.

BẢO TỒN, PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA Ở TỈNH VĨNH PHÚC TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

Vĩnh Phúc là tỉnh có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời. Trải qua thời gian, trong kho tàng di sản văn hóa (DSVH) của tỉnh vẫn còn lưu giữ được nhiều di tích, di chỉ khảo cổ, hiện vật, lễ hội, nghề thủ công truyền thống, nghệ thuật diễn xướng dân gian, trò chơi dân gian... phong phú và độc đáo. Những năm gần đây, các DSVH của tỉnh Vĩnh Phúc đang phải đối mặt với nguy cơ bị mai một do sự tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế.

TÍN NGƯỠNG NÔNG NGHIỆP TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA NGƯỜI SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN

Cư trú trên mảnh đất trung du, sinh kế chính của người Sán Dìu ở Thái Nguyên là canh tác nông nghiệp. Hoạt động sản xuất phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên trong đời sống tinh thần, họ luôn hướng đến thần linh, cầu mong cuộc sống yên ổn, mạnh khỏe để làm ăn, mùa màng tốt tươi... Các biểu hiện của việc thờ cúng thần nông, thờ vía lúa, thờ tổ tiên, thành hoàng làng... cùng các lễ hội gắn liền với thời vụ sản xuất như cầu mùa, cầu mưa, hạ điền, thượng điền, cúng cơm mới... phản ánh rõ nét niềm tin linh của cộng đồng. Tín ngưỡng nông nghiệp không chỉ có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần người Sán Dìu, còn góp phần hình thành nên diện mạo văn hóa của tộc người vùng trung du.

TÍNH ĐĂNG ĐỐI TRONG NỘI THẤT NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

Tính đăng đối trong trang trí nói chung và trang trí nội thất nhà ở truyền thống nói riêng là một trong những yếu tố quan trọng đem lại giá trị thẩm mỹ cho ngôi nhà. Trong những hoàn cảnh nhất định, nó mang tính biểu tượng nghệ thuật và thể hiện tinh thần của một công trình. Tuy nhiên, những nguyên tắc trang trí này còn bị ảnh hưởng và chi phối bởi văn hóa truyền thống, các quan niệm sống, đặc điểm khí hậu, kết cấu của công trình… Bài viết muốn nhận diện, hệ thống các đặc điểm khác nhau của tính đăng đối, trong trang trí trong nhà ở truyền thống vùng Bắc Bộ như là phương tiện quan trọng trong sự khám phá những giá trị thẩm mỹ cần được bảo tồn và phát triển trong kiến trúc truyền thống.

QUAN LANG HỌ ĐINH Ở MƯỜNG ĐỘNG VÀ NHÀ NƯỚC ĐẠI VIỆT

Họ Đinh là một trong những họ lớn trong cộng đồng các họ tộc ở Việt Nam đóng góp nhiều công sức để xây dựng và bảo vệ đất Việt. Đó cũng là họ mang dấu ấn bản địa ngàn đời trên mảnh đất này. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của các tộc nhánh họ Đinh trong cộng đồng các dòng họ người Việt, thì họ Đinh vẫn là một họ lớn của người Mường cho đến tận ngày nay. Trong bài viết này, chúng tôi trình bày về họ Đinh ở vùng Mường Động trong mối quan hệ với nhà nước Đại Việt.

TỪ LAM KINH ĐẾN ĐÔNG KINH: MỐI LIÊN HỆ LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA

Trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, Lam Sơn (Lam Kinh) là vùng đất chứa đựng dấu ấn quan trọng, nơi dựng cờ khởi nghĩa của Bình Định Vương Lê Lợi. Từ Lam Kinh - quê hương của hoàng tộc nhà Lê, căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống quân Minh đến Đông Kinh - kinh đô của vương triều Hậu Lê có những mối dây liên hệ trên nhiều phương diện về lịch sử, văn hóa nghệ thuật. Nghiên cứu mối liên hệ đó góp phần tái hiện không gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật kiến trúc, mỹ thuật điển hình thời Lê sơ, phục vụ công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản ở Lam Kinh, Đông Kinh (Thăng Long - Hà Nội) hiện nay.

LỄ HỘI VÍA BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM TỪ GÓC NHÌN LỄ VẬT

Bà Chúa Xứ núi Sam từ lâu đã được xem là một vị thần bảo hộ có quyền năng vô hạn. Việc tôn thờ Bà và niềm tin được Bà che chở khiến cho cư dân thấy yên tâm làm ăn. Người dân đến với lễ hội vía bà chúa Xứ núi Sam Châu Đốc tỉnh An Giang thuộc miền Tây Nam Bộ Việt Nam không chỉ có được sự đồng cảm về biểu tượng chung - biểu tượng của niềm tin tâm linh, mà còn có niềm cộng cảm về các giá trị văn hóa.

YẾU TỐ VĂN HÓA BIỂN TRONG LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA CƯ DÂN VÂN ĐỒN, QUẢNG NINH

Là một huyện đảo của tỉnh Quảng Ninh, Vân Đồn không không chỉ là địa danh lịch sử nổi tiếng trong quá trình bảo vệ tổ quốc với sự ra đời và phát triển của trang Vân Đồn từ thời kỳ nhà Lý, mà đây còn là một vùng văn hóa đặc sắc, trong đó yếu tố văn hóa biển là yếu tố đặc trưng của lịch sử - văn hóa cư dân nơi đây. Cho đến nay, các lễ hội truyền thống ở Vân Đồn còn thể hiện rõ những yếu tố văn hóa biển truyền thống của cư dân nơi đây. Lễ hội Quan Lạn chẳng hạn, không chỉ là một trong lễ hội quan trọng nhất của cư dân vùng biển, mà còn có sự tích hợp giữa yếu tố văn hóa biển và yếu tố lịch sử chống giặc ngoại xâm trên biển.

MÔ HÌNH QUẢN LÝ DI SẢN MỘC BẢN CHÙA VĨNH NGHIÊM VÀ CHÙA BỔ ĐÀ TỈNH BẮC GIANG

Cho đến nay, Việt Nam đã có 6 di sản được công nhận là di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới (1). Việc vinh danh các di sản tư liệu thế giới vừa là sự ghi nhận giá trị văn hóa của chủ thể và quốc gia có di sản, đồng thời cũng đặt ra trách nhiệm bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản đó. Mộc bản ở chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà được Luật Di sản văn hóa và các Công ước quốc tế về Bảo vệ di sản văn hóa bảo vệ. Vì vậy, việc bảo tồn, phát huy giá trị của di sản mộc bản tại hai chùa Bổ Đà và Vĩnh Nghiêm là rất cần thiết. Quá trình trên phụ thuộc rất lớn vào việc định hướng mô hình quản lý di sản đi theo hướng phát triển nào. Để lựa chọn mô hình bảo tồn và phát huy di sản, chúng ta phải căn cứ trên những tiêu chí như: mục đích, nguyên tắc, loại hình di sản và nguồn lực, bao gồm các nguyên tắc, mục tiêu, nội dung hoạt động, với các vấn đề cụ thể.

TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU NHÌN TỪ LÝ THUYẾT TÍNH ĐỒNG DẠNG

Ở Việt Nam, lý thuyết mạng lưới xã hội (MLXH) tỏ ra có hiệu quả trong việc nghiên cứu và giải thích quá trình di cư, tìm kiếm việc làm, phát triển kinh tế, hành vi tìm kiếm sức khỏe... Trong bài viết này, chúng tôi vận dụng lý thuyết về tính đồng dạng của J.McPherson, L.S.Lovin để nghiên cứu một MLXH, cụ thể là trường hợp đồng thày Đặng Thị Mát, trụ trì chùa Hang, đền Quan Tam phủ, xã Thanh Mỹ, Sơn Tây, Hà Nội; từ đó góp phần phản ánh quá trình vận động của tín ngưỡng thờ mẫu trong bối cảnh xã hội chịu tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa.