• Văn hóa > Cổ truyền

MÔ HÌNH QUẢN LÝ DI SẢN MỘC BẢN CHÙA VĨNH NGHIÊM VÀ CHÙA BỔ ĐÀ TỈNH BẮC GIANG

Cho đến nay, Việt Nam đã có 6 di sản được công nhận là di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới (1). Việc vinh danh các di sản tư liệu thế giới vừa là sự ghi nhận giá trị văn hóa của chủ thể và quốc gia có di sản, đồng thời cũng đặt ra trách nhiệm bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản đó. Mộc bản ở chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà được Luật Di sản văn hóa và các Công ước quốc tế về Bảo vệ di sản văn hóa bảo vệ. Vì vậy, việc bảo tồn, phát huy giá trị của di sản mộc bản tại hai chùa Bổ Đà và Vĩnh Nghiêm là rất cần thiết. Quá trình trên phụ thuộc rất lớn vào việc định hướng mô hình quản lý di sản đi theo hướng phát triển nào. Để lựa chọn mô hình bảo tồn và phát huy di sản, chúng ta phải căn cứ trên những tiêu chí như: mục đích, nguyên tắc, loại hình di sản và nguồn lực, bao gồm các nguyên tắc, mục tiêu, nội dung hoạt động, với các vấn đề cụ thể.

TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU NHÌN TỪ LÝ THUYẾT TÍNH ĐỒNG DẠNG

Ở Việt Nam, lý thuyết mạng lưới xã hội (MLXH) tỏ ra có hiệu quả trong việc nghiên cứu và giải thích quá trình di cư, tìm kiếm việc làm, phát triển kinh tế, hành vi tìm kiếm sức khỏe... Trong bài viết này, chúng tôi vận dụng lý thuyết về tính đồng dạng của J.McPherson, L.S.Lovin để nghiên cứu một MLXH, cụ thể là trường hợp đồng thày Đặng Thị Mát, trụ trì chùa Hang, đền Quan Tam phủ, xã Thanh Mỹ, Sơn Tây, Hà Nội; từ đó góp phần phản ánh quá trình vận động của tín ngưỡng thờ mẫu trong bối cảnh xã hội chịu tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa.

NGUỒN GỐC CÁCH THỨC XƯNG HÔ THÂN TỘC TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY

Xưng hô là hình thức giao tiếp cơ bản, phản ánh những mối quan hệ giữa các cá nhân trong một xã hội. Xưng hô thân tộc là hình thức xưng hô sử dụng các danh từ chỉ người trong gia đình và dòng họ để giao tiếp giữa người với người và đây cũng là hình thức xưng hô căn bản trong xã hội Việt Nam hiện nay. Việc tìm hiểu về nguồn gốc của cách thức xưng hô này sẽ cho thấy sự khác biệt so với cách thức xưng hô phi thân tộc của nhiều dân tộc khác trên thế giới.

LỄ CẦU MÁT Ở XÃ ĐƯỜNG LÂM, SƠN TÂY, HÀ NỘI

Trong một năm, người Việt thực hiện rất nhiều nghi thức cầu cúng nhằm cầu xin sự bình an, hạnh phúc trong cuộc sống. Bên cạnh những lễ tiết chính, nhiều địa phương còn duy trì một số nghi lễ khác như lễ cầu mát, lễ ra hè... Trong bài viết này, chúng tôi chọn khảo sát lễ cầu mát ở một số làng thuộc xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội với mong muốn tìm hiểu những biến đổi của nghi lễ dân gian trong đời sống đương đại.

SINH VIÊN HÀ NỘI VỚI LỄ HỘI PHƯƠNG TÂY

Tổ chức và tham gia vào các lễ hội là hoạt động văn hóa thường xuyên của sinh viên Hà Nội. Các lễ hội truyền thống, lễ hội nhân dịp thành lập trường, lập khoa, lễ hội chào tân sinh viên... thu hút sự quan tâm của sinh viên, đặc biệt là những lễ hội có nguồn gốc phương Tây. Từ sự tham dự của sinh viên ở những lễ hội này đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề cần quan tâm.

KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA NGƯỜI THÁI TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Người Thái được coi là dân tộc đa số của vùng Tây Bắc cũng như miền tây Thanh - Nghệ. Do là tộc người có số lượng dân số đông nhất so với các dân tộc thiểu số khác, nên bên cạnh tiếng Việt, tiếng Thái là ngôn ngữ giao tiếp chính của hai khu vực trên. Việc nghiên cứu tính chất, bản sắc và khả năng thích ứng cũng như mối quan hệ giữa người Thái với các tộc người khác trong vùng; giữa người Thái Việt Nam với người Thái trong khu vực có ý nghĩa hết sức quan trọng. Từ việc tổng hợp các tài liệu nghiên cứu đã công bố về người Thái ở miền tây 2 tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, kết hợp với những tư liệu thu thập được qua nghiên cứu thực địa tại 3 địa điểm: huyện Tương Dương (xã Xá Lượng), huyện Quế Phong (xã Tri Lễ), tỉnh Nghệ An và huyện Quan Sơn (xã Mường Mìn), tỉnh Thanh Hóa, chúng tôi xin trình bày một số vấn đề sau.

HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI DAO Ở TUYÊN QUANG SAU TÁI ĐỊNH CƯ

Người Dao ở Tuyên Quang có khoảng 77.015 người chiếm 10.61% dân số toàn tỉnh với 9 nhóm khác nhau là nhóm Dao đỏ, Dao tiền, Dao áo dài, Dao coóc mùn, Lô gang, Thanh y, Coóc ngáng, Quần trắng, Quần chẹt. Nhóm Dao đỏ sống chủ yếu ở 27 xã thuộc 2 huyện Chiêm Hóa, Na Hang (1). Theo các tài liệu nghiên cứu, các nhà dân tộc học đều khẳng định nhóm người Dao đỏ ở Tuyên Quang có nguồn gốc từ miền nam Trung Quốc, đến Tuyên Quang vào khoảng cuối thời Minh, cùng với sự di cư của nhóm Dao tiền từ Quảng Đông, Quảng Tây, Trung Quốc: “Nhóm người Dao đỏ và Dao tiền ở Na Hang cũng được liệt vào nhóm Dao đã đến Việt Nam trong khoảng thời gian từ TK XIV đến XVII” (2).

VÀI NÉT VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG HUYỆN ĐÔNG ANH

Đông Anh là huyện ngoại thành Hà Nội, có vị trí chiến lược quan trọng không chỉ về vị trí địa lý mà còn là sự tổng hòa của các yếu tố tự nhiên, tạo nên đặc trưng văn hóa riêng biệt cho vùng đất này. Đông Anh đã hai lần được chọn là kinh đô của nước Việt: kinh đô Cổ Loa thời An Dương Vương (208 - 179 trước CN) và kinh đô lần thứ hai sau khi Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 (1).

ĐẶC SẮC TRONG ÁNG MO ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC CỦA NGƯỜI MƯỜNG

Trong 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, người Mường có số dân đông thứ nhì sau người Kinh và là dân tộc có nền văn hóa riêng rất giàu bản sắc. Một trong những biểu hiện của nền văn hóa đặc sắc ấy phải kể tới kho tàng mo Mường gắn với phong tục lễ tang. Với quan niệm sống chết là quy luật, song, người ta khi chết đi vẫn tiếp tục sống ở thế giới khác. Nếu được gia đình chuẩn bị chu đáo nghĩa là được mo đầy đủ thì hồn ma càng sớm được đến mường Trời. Mo lễ tang gồm 5 phần dài tới vài vạn câu. Nếu thực hiện đầy đủ nghi lễ này phải kéo dài tới 12 đêm. Trong 5 phần của mo lễ tang thì phần Đẻ đất đẻ nước (Te tấc te tác) còn gọi là mo trêu có nội dung độc đáo và đặc sắc nhất (1).

NÉT ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA TRONG TRUYỆN THƠ NÔM TÀY

Trong kho tàng văn học dân gian Tày, truyện thơ Nôm là thể loại đạt được nhiều thành tựu tiêu biểu. Theo thống kê của Vũ Anh Tuấn: “Gần 60 pho sách truyện Nôm Tày đã được chép thành văn bản. Đó là chưa kể đến hàng trăm dị bản truyền miệng trong dân gian, hàng chục văn bản Nôm Tày mà thỉnh thoảng lại có văn bản được sưu tầm công bố tư liệu bổ sung” (1). Từ năm 2004 đến nay đã có hơn 60 tác phẩm, trong số đó có nhiều tác phẩm đã được sưu tầm, phiên âm Latin hóa, dịch ra tiếng Việt, rồi xuất bản, công bố.

LỄ HỘI YÊN THẾ, TỪ HOÀNG HOA THÁM VÀ DÀNH CHO HOÀNG HOA THÁM

Lễ hội Yên Thế xuất hiện khá muộn và gắn với nhân vật lịch sử có thực là Hoàng Hoa Thám. Sự nghiệp chống thực dân Pháp suốt gần 30 năm xung quanh núi rừng Yên Thế của vị thủ lĩnh Đề Thám không chỉ để lại một chiến tích quân sự lừng lẫy mà còn để lại những tập tục, di vật có giá trị tín ngưỡng và lịch sử làm cơ sở cho việc cộng đồng duy trì và tôn vinh thành một hệ thống di sản tâm linh, văn hóa cấp quốc gia. Nói cách khác, lễ hội Yên Thế chính là nơi phản ánh rõ nhất quá trình ký ức cộng đồng tiếp nhận, lưu giữ hình ảnh của Đề Thám.