• Văn hóa > Cổ truyền

BIẾN ĐỔI VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG ĐÌNH LÀNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Hơn 300 năm trước, người Việt đã đến TP.HCM từng bước khai hoang, lập làng và mang theo những phong tục tập quán nơi quê cha đất tổ. Đến nay, TP.HCM đã trở thành một trong những thành phố phát triển nhất đất nước với quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ. Những giá trị văn hóa truyền thống theo đó cũng có nhiều biến đổi, trong đó có thể kể đến văn hóa làng với các tín ngưỡng thờ cúng tại ngôi đình. Những thay đổi về chức năng, đối tượng thờ cúng đã tạo nên sự khác biệt giữa đình làng ở TP.HCM với khu vực Bắc và Trung Bộ. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích loại hình tín ngưỡng đình làng của cư dân đô thị thông qua nghiên cứu trường hợp ngôi đình Nam Chơn, đường Trần Quang Khải, phường Tân Định, quận 1, TP.HCM.

SỰ HỘI NHẬP CỦA NGƯỜI HOA VÀO XÃ HỘI NAM BỘ

Cùng với người Khơme và người Việt, người Hoa đã tham gia vào công cuộc khai khẩn vùng đất Nam Bộ từ rất sớm. Người Hoa ở khu vực này đa số có nguồn gốc từ duyên hải phía nam Trung Quốc. Trải qua ba thế kỷ sinh sống, họ không chỉ nhận mà còn góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng của văn hóa khu vực này. Vấn đề hội nhập của người Hoa vào vùng đất Nam Bộ diễn ra thực sự mạnh mẽ từ cuối TK XVII, khi phong trào di dân từ Trung Hoa vào Việt Nam trở nên ồ ạt và người Hoa có ý thức coi Việt Nam là quê hương thứ hai của mình. Người Hoa định cư theo những tổ chức xã hội của riêng mình, được chính quyền sở tại công nhận như Minh Hương xã, các hình thức bang, hội… Chính quyền nhà Nguyễn luôn sẵn sàng chấp nhận người nước ngoài đến xin tá túc tị nạn hay làm ăn, nhưng bắt buộc phải theo một quy chế tuần tự đồng hóa. Với những quy chế rộng mở, đồng hóa như vậy, Hoa kiều sang đến đời thứ hai đã được coi như người Việt, tuân theo thể chế chính trị của người Việt. Có rất nhiều người Minh Hương (như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Phan Thanh Giản…) đã trở thành sứ thần, trọng thần của triều đình nhà Nguyễn.

TỤC THỜ THIÊN HẬU Ở DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ

Tín ngưỡng thờ bà Thiên Hậu (còn gọi là Mã Châu, Thiên Phi...) xuất phát từ Phúc Kiến, Trung Quốc, theo bước chân di trú của những người Hoa Nam đã lan tỏa đi nhiều nơi, trong đó có Nam Bộ nước ta. Trên con đường mưu sinh, người Hoa tin tưởng sự hiển linh của bà đã giúp họ vượt qua được mọi trở ngại để an cư lạc nghiệp. Để tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự phù trợ đó, họ đã kiến tạo nên các ngôi miếu thờ phụng bà.

VỀ TƯ TƯỞNG THÂN DÂN THỜI THỊNH TRẦN

Tư tưởng về một nền chính trị nhân nghĩa, thân dân là giá trị đặc thù nhất và quý giá nhất trong lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, thường xuyên chi phối sự phát triển của dân tộc, đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, chống áp bức bóc lột và tiến bộ xã hội của nhân dân ta. Tư tưởng thân dân đã trở thành chuẩn mực để người dân Việt Nam đánh giá về một nền chính trị.

LỄ CẤP SẮC 12 ĐÈN CỦA NHÓM DAO TIỀN KHĂN TRẮNG Ở BẮC CẠN, CAO BẰNG

Cấp sắc là nghi lễ mang dấu ấn văn hóa đặc trưng của người Dao, có ba cấp bậc để thực hành là 3 đèn, 7 đèn, 12 đèn. Tùy từng nhóm Dao mà các cấp độ này có thể được thực hiện riêng biệt hoặc tổ chức gộp trong cùng một thời điểm. Tuy nhiên, các nghiên cứu về lễ cấp sắc 12 đèn trong đời sống văn hóa của người Dao còn thiếu, lý do là: tần số tổ chức nghi lễ trong đời sống của nhóm Dao tiền thường kéo dài trong khoảng 30 năm/lần, do tính phức tạp của nghi lễ, quá trình chuẩn bị, trai giới… nên không phải tất cả các dòng họ cư trú ở khu vực hai huyện Ngân Sơn (Bắc Cạn), Nguyên Bình (Cao Bằng) đều có thể đủ điều kiện kinh tế, sự thống nhất để chuẩn bị. Ngoài ra, trong quá trình tổ chức nghi lễ, những người ngoài dòng họ không được phép tham dự, quan sát… Những lý do trên đã khiến cho quá trình nghiên cứu về lễ cấp sắc 12 đèn ở Việt Nam hiện nay gần như là vấn đề còn rất mới.

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐẠO CÔNG GIÁO VÀ TIN LÀNH CỦA NGƯỜI MÔNG VÙNG NÚI PHÍA BẮC

Dân tộc Mông có 1.068.189 người (chiếm 1,24% dân số cả nước), xếp thứ 5 trong số các dân tộc ít người có dân số đông nhất Việt Nam. Đồng bào cư trú đông nhất là các tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc, dọc theo biên giới Việt - Trung, Việt - Lào. Họ có dân số theo tôn giáo đứng đầu các dân tộc ít người ở khu vực miền núi phía Bắc, chiếm tới 19,7% tộc người, ước khoảng 200.000 tín đồ. Có 2 tôn giáo ảnh hưởng lớn đến dân tộc Mông là công giáo, tin lành. Công giáo xuất hiện sớm nhất, gắn với thời điểm thành lập giáo xứ Sapa; tin lành có ảnh hưởng muộn hơn 8 thập kỷ, nhưng phát triển rất nhanh, có số tín đồ đi theo đông hơn nhiều.

MÔ HÌNH QUẢN LÝ KHU DI TÍCH ĐỀN TRẦN Ở HƯNG HÀ, THÁI BÌNH

Quần thể di tích khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần nằm ở làng Tam Đường, xã Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình là một cụm di tích nổi bật về quy mô, tầm giá trị và sức hút trong số hàng trăm di tích lịch sử, văn hóa toàn huyện, được quy hoạch với tổng diện tích 32,4 ha. Khu Di tích đền Trần và Thái Đường lăng đã được công nhận là Khu di tích khảo cổ học và di tích lịch sử quốc gia năm 1990. Năm 2014, lễ hội đền Trần Thái Bình được Bộ VHTTDL công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia. Năm 2015, Khu lăng mộ, đền thờ các vị vua triều Trần huyện Hưng Hà, Thái Bình được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt. Trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của di sản, việc lựa chọn mô hình quản lý nào để bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích đền Trần là một trong những nhiệm vụ cấp bách về mặt khoa học và thực tiễn.

BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN HÁN NÔM TRONG DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA VÙNG TÂY NAM BỘ

Tư liệu Hán Nôm ra đời từ trước năm 1945, bao gồm các sách và tài liệu ghi bằng chữ Hán, Nôm hoặc kết hợp cả hai. Các tư liệu này được viết trên giấy, vải, hoặc được khắc trên gỗ, đá, đồng, gốm, sứ… ghi lại toàn bộ lịch sử và đời sống dân tộc qua các thời kỳ trong quá khứ. Hiện nay, tư liệu Hán Nôm không còn nhiều, đặc biệt là những tư liệu tại các di tích lịch sử văn hóa không có biện pháp lưu trữ phù hợp, nhất là các tư liệu được khắc trên các chất liệu gỗ, đồng hoặc in dập trên giấy. Vì vậy qua thời gian, các tư liệu này đang đứng trước nguy cơ mất mát, mai một. Việc bảo tồn và phát huy giá trị của những tư liệu Hán Nôm trở thành một vấn đề cấp thiết trong thời đại ngày nay.

BIỂU TƯỢNG NƯỚC TRONG TANG CA CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN

Người Dao tuyển di cư đến Việt Nam khá sớm. Trên con đường di cư cũng như khi cắm bản tại vùng đất mới, người Dao tuyển gặp nhiều khó khăn về điều kiện vật chất nhưng không vì thế mà họ đánh mất đi đời sống văn hóa tinh thần. Nổi bật là kho tàng dân ca nghi lễ phong phú về thể loại, đặc sắc về nội dung. Một tài sản văn hóa phi vật thể vô giá của người Dao Tuyển là dân ca nghi lễ tang ma (còn gọi là tang ca). Tang ca của người Dao tuyển không chỉ phản ánh phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tư tưởng, tình cảm mà chứa đựng trong đó một hệ thống biểu tượng có giá trị văn học, văn hóa cao. Biểu tượng nước trong tang ca của người Dao tuyển, đặt trong cơ tầng văn hóa tộc người, giúp chúng ta hiểu sâu hơn đời sống văn hóa phong phú của tộc người này.