Văn học thiếu nhi (hay còn gọi là văn học trẻ em), được hiểu là những tác phẩm văn học phổ cập dành riêng cho thiếu nhi, cũng có khi được hiểu rộng hơn, đó là: “những tác phẩm văn học được mọi nhà văn sáng tạo ra với mục đích giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu nhi nhiều khi cũng là người lớn, hoặc một cơn gió, một loài vật, một cái cây… Tác giả không chỉ là chính các em, mà cũng là nhà văn thuộc mọi lứa tuổi” (1). Văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số (DTTS) là những sáng tác của các tác giả DTTS viết về trẻ em, dành cho trẻ em hoặc những sáng tác do thiếu nhi DTTS viết.
Văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhân vật trung tâm hoặc là thiếu nhi, hoặc là người lớn, hoặc là con người, hoặc là thế giới tự nhiên… nhưng được nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ. Các tác phẩm này có nội dung gần gũi, quen thuộc với vốn trải nghiệm của trẻ em, được các em thích thú, say mê và có tác dụng hoàn thiện đạo đức, tâm hồn cho lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng. Nó bao gồm tất cả những sáng tác viết về thiếu nhi, viết cho thiếu nhi và do thiếu nhi viết. Mảng văn học này có vị trí nhất định trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, hiện nay, văn học thiếu nhi Việt Nam đang có những “khoảng trống và nhiều nỗi lo về sự nghèo nàn” (2). Quả thật, trên thị trường văn học thiếu nhi, thể loại sách, truyện dành cho thiếu nhi khá ít đầu sách và không thực sự hấp dẫn. Đối với văn học thiếu nhi DTTS, sự lan rộng và phổ cập đến bạn đọc nhỏ tuổi còn bị hạn chế nhiều hơn nữa. Nhiều công trình nghiên cứu về văn học thiếu nhi dường như mới chỉ quan tâm tới những sáng tác của các tác giả người Kinh mà chưa biết đến hoặc vô tình lãng quên một số lượng khá lớn những sáng tác dành cho thiếu nhi của bộ phận các nhà văn DTTS.
Văn học thiếu nhi DTTS phản ánh đời sống tâm hồn của trẻ em miền núi với những ước mơ, khát vọng hoài bão đẹp đẽ. Đó là thế giới thiên nhiên sinh động trong mắt trẻ thơ, là những tấm gương thiếu nhi vượt khó vươn lên trong thiếu thốn hay dũng cảm dám chống lại kẻ thù, chống lại cái ác, cái xấu để bảo vệ lẽ phải. Đó còn là hiện thực về cuộc sống đầy vất vả gian truân của trẻ em miền núi trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình chinh phục những đỉnh cao của tri thức và ước mơ. Và tất yếu ở đó cũng có cả thế giới loài vật ngộ nghĩnh, đáng yêu, gần gũi và gắn bó với tuổi thơ các em nhỏ miền núi…
Văn học thiếu nhi DTTS trong đời sống hiện nay
Nghiên cứu về văn học thiếu nhi DTTS đã có một số công trình, bài viết, luận văn, luận án quan tâm đến, như các bài viết của Lâm Tiến (Đọc Thằng bé củ mài của Mã A Lềnh, 2002; Đọc Chú Hảnh và thằng Boóng của Địch Ngọc Lân, 2011), Vân Thanh (Một thiên tự sự chân thực và cảm động Đường về với mẹ chữ của Vi Hồng, 2000)… Hoặc các luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Nhị Hà (Văn xuôi viết cho thiếu nhi của một số tác giả dân tộc Tày, 2015), Nguyễn Thị Thanh Mai (Thơ viết cho thiếu nhi của một số tác giả DTTS tiêu biểu, 2015), Vũ Thị Huyền Trang (Thơ thiếu nhi của Dương Khâu Luông, 2018)...
Trong các công trình trên, diện mạo và đóng góp của văn học thiếu nhi DTTS cho dòng chảy văn học thiếu nhi Việt Nam đã được khẳng định. Các tác giả đã giới thiệu được một số thành tựu, tác giả, tác phẩm tiêu biểu của văn học thiếu nhi DTTS Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, phần lớn là những bài báo, bài nghiên cứu hoặc những bài viết giới thiệu sách; luận văn thạc sĩ về một tác giả cụ thể nên chưa bao quát hết thành tựu của văn học thiếu nhi DTTS. Riêng công trình Văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, 2020 (3) là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu khá hệ thống và phong phú về văn học thiếu nhi DTTS. Các tác giả đã giới thiệu chung về diện mạo và đặc điểm cùng những thành tựu và một số tác giả tiêu biểu của văn học thiếu nhi DTTS. Qua đó khẳng định vị trí của mảng văn học này trong đời sống văn học thiếu nhi Việt Nam.
Phần lớn các công trình trên, do đặc thù nghiên cứu nên phạm vi đọc còn hạn chế, chưa được quan tâm rộng rãi trong đời sống. Những băn khoăn của chúng tôi về việc “văn học thiếu nhi DTTS Việt Nam vẫn chưa có một đời sống thị trường thực sự mà chủ yếu được cấp phát, phân phối về các trường phổ thông ở miền núi để phục vụ miễn phí cho độc giả nhỏ tuổi là trẻ em DTTS. Ngay cả nguồn cấp phát này cũng không phải thường xuyên, liên tục. Làm sao để văn học thiếu nhi DTTS có thể đồng hành cùng bạn đọc nhỏ tuổi miền núi thường xuyên, liên tục?” (4) giờ đây đã được giải đáp phần nào. Một số tác phẩm dành cho văn học thiếu nhi DTTS đã xuất hiện trong chương trình phổ thông mới. Việc đưa văn học thiếu nhi DTTS vào sách giáo khoa phổ thông sẽ mở rộng đối tượng tiếp nhận. Bởi sách giáo khoa là một kênh thông tin phổ biến và cập nhật để văn học DTTS được biết đến rộng rãi hơn trong đời sống xã hội.
Hiện nay, văn học thiếu nhi DTTS cũng bước đầu được quan tâm và lựa chọn giới thiệu trong chương trình phổ thông. Trong Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng quy định rõ đối với yêu cầu lựa chọn văn bản (ngữ liệu) là: “Trong văn bản văn học, chú ý bảo đảm sự cân đối tương đối giữa các thể loại cơ bản (truyện, thơ, ký, kịch), giữa văn học trung đại và văn học hiện đại, giữa văn học dân gian và văn học viết, giữa văn học dân tộc Kinh và văn học DTTS, giữa văn học Việt Nam và văn học nước ngoài, giữa Đông và Tây” (5). Rõ ràng, văn học DTTS cũng là một nguồn ngữ liệu cần được đưa vào sách giáo khoa khi biên soạn theo chương trình phổ thông năm 2018. Đây có thể coi là một tiền đề quan trọng tạo nên chỗ đứng cho văn học thiếu nhi DTTS trong đời sống xã hội.
Thực tế, trong sách giáo khoa Ngữ văn 6 soạn theo chương trình mới (xuất bản năm 2021), cả 3 bộ sách: Cánh Diều, Kết nối tri thức với cuộc sống, Chân trời sáng tạo đều sử dụng một số ngữ liệu văn học DTTS. Điều này cho thấy sự đúng đắn khi bám sát chương trình của các bộ sách giáo khoa mới, đồng thời cũng cho thấy vai trò và vị trí cần thiết của văn học DTTS trong đời sống tiếp nhận văn học ở cấp học phổ thông.
Ở bộ sách Cánh Diều, các tác giả đã lựa chọn truyện ngắn Chích bông ơi! của Cao Duy Sơn để đưa vào bài 9 (6). Truyện đã giáo dục tình yêu thương loài vật ở trẻ em qua câu chuyện của hai cha con Ò Khìn và Dế Vần. Một câu chuyện cảm động về việc cậu bé Ò Khìn nhờ cha bắt cho con chim chích bông non đang bị mắc ở cành gai để chơi. Điều này làm người cha nhớ lại kỷ niệm của mình. Khi đó, Dế Vần mới 8 tuổi, cùng cha lên rẫy cũng bắt được con chim chích bông con và muốn giữ để nuôi. Cậu bé rất yêu quý chim nhưng vì phải xa mẹ nên chim chích bông con đã chết. Chiều về nghe tiếng gọi thảm thiết của chim mẹ, Dế Vần ân hận biết bao. Ông đã kể cho con mình câu chuyện đó và chú bé Ò Khìn dù rất yêu chim chích bông nhưng đã rút ra bài học cho mình. Cậu bé quyết định thả chích bông non với lời thì thầm: “Bay đi, bay về với mé mày đi, mé mày đang đợi đấy! Chích bông ơi!”. Tình yêu thương gắn bó, tình cha con, bối cảnh không gian miền núi và tâm hồn trẻ thơ đã khiến truyện ngắn để lại dư âm cho bạn đọc.
Ở bộ Chân trời sáng tạo (7), bài thơ Con là… của Y Phương được đưa vào phần đọc mở rộng theo thể loại. Trong vũ trụ của tình thương, con là hạt nhân trung tâm, là nỗi buồn, niềm vui, là cuộc sống, là hạnh phúc của mẹ cha. Bài thơ đã sử dụng những hình ảnh so sánh độc đáo để thể hiện tình cảm sâu nặng mà người cha dành cho con: Con là nỗi buồn của cha/ Dù to bằng trời/ Cũng sẽ được lấp đầy/ Con là niềm vui của cha/ Dù nhỏ bằng hạt vừng/ Ăn mãi không bao giờ hết/ Con là sợi dây hạnh phúc/ Mảnh hơn sợi tóc/ Buộc cuộc đời cha vào với mẹ.
Tình yêu thương và sự trân trọng gia đình là cội nguồn để tạo nên sự kết nối trong cuộc sống này. Đó là thông điệp giản dị nhưng đầy ý nghĩa sâu sắc mà nhà thơ Tày Y Phương đã gửi gắm cho bạn đọc nhỏ tuổi.
Trong sách Ngữ văn 6, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống lại giới thiệu về nhà thơ Lò Ngân Sủn (8). Chân dung cùng nét đặc trưng riêng của Lò Ngân Sủn - người con của núi đã được giới thiệu cụ thể và sinh động. Qua bài viết, tác giả Minh Khoa đã lý giải tại sao Lò Ngân Sủn lại là người con của núi. Những yếu tố về quê hương, bản quán, đặc biệt là tình yêu tha thiết với núi rừng đã làm nên một Lò Ngân Sủn rất riêng: “Không có tình yêu tha thiết với núi rừng, với quê hương, với “chồi non cỏ biếc”, với “đầu sông đầu suối”, với những “bậc thang mây”… chắc hẳn không thể có nhà thơ Lò Ngân Sủn với những câu thơ “vạm vỡ” mà âm vang như “con suối thác đổ”, khiến trái tim bao độc giả phải bồi hồi. Từ bài viết này, tác giả đã gợi dẫn cho các em hình dung về mạch nguồn tạo nên phong cách thơ Lò Ngân Sủn - một nhà thơ tiêu biểu của dân tộc Giáy ở Bát Xát, Lào Cai. Lò Ngân Sủn cũng là một tác giả DTTS có nhiều sáng tác cho thiếu nhi.Chúng ta có thể kể đến các tập thơ Lò Ngân Sủn viết cho thiếu nhi như: Suối Pí Lè, Cái bật lửa trời... Trong thơ Lò Ngân Sủn, thiên nhiên vùng Tây Bắc hiện lên thật độc đáo. Trong tập thơ Suối Pí Lè, tác giả đã giới thiệu những nét đẹp của thiên nhiên miền núi qua các hình ảnh sinh động trong: Mừng xuân, mừng Tết; Rừng ơi; Núi đồi; Chợ phiên; Đánh quay; Cái nỏ; Những con bọ hung…
Việc góp mặt của những tác phẩm, tác giả văn học thiếu nhi DTTS trong chương trình sách giáo khoa phổ thông đã cho thấy sự định hướng đúng đắn của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đến khu vực văn học này. Đây là một tín hiệu đáng mừng so với giai đoạn trước. Văn học thiếu nhi DTTS đã được mở rộng phạm vi đọc và tiếp cận. Từ đó cho thấy vị trí và vai trò của mảng văn học này trong đời sống văn học nước nhà đã được chú ý, quan tâm.
Tuy nhiên, hiện thực tiếp nhận đối với văn học thiếu nhi DTTS như trên vẫn còn khá khiêm tốn. Trên thực tế, hiện tượng trên chưa phản ánh đúng thực trạng đời sống văn học thiếu nhi DTTS nước ta. Văn học thiếu nhi DTTS Việt Nam rất phong phú, đa dạng và mang bản sắc riêng. Nó gắn liền với những tên tuổi như: Vi Hồng (Đường về với mẹ chữ, Thách đố), Dương Thuấn (Chia trứng công), Dương Khâu Luông (Gọi bò về chuồng, Bắt cá sông quê), Đoàn Lư (Bên dòng Quây Sơn, Lê na - Kitty cô bé siêu nhân), Hà Lâm Kỳ (Kỷ vật cuối cùng, Chim ri núi), Đoàn Ngọc Minh (Núi Bó Phạ trở về), Hữu Tiến (Một cuộc đi săn)… dân tộc Tày; Mã A Lềnh (Thằng bé củ mài, Tấm lòng bè bạn) dân tộc Mông, Lò Ngân Sủn (Suối Pí lè, Cái bật lửa trời) dân tộc Giáy, Hà Thị Cẩm Anh (Thần rừng), Kha Thị Thường dân tộc Mường... ở khu vực phía Bắc. Ở khu vực miền Trung có La Quán Miên (Bản nhỏ tuổi thơ) dân tộc Thái; Inrasara, Trà Vigia (Thả diều xứ nắng) dân tộc Chăm; ở khu vực miền Nam - Tây Nguyên có Kim Nhất (Ký ức rừng xanh) dân tộc Ba na; Hlinh Niê, Niê Thanh Mai dân tộc Ê đê... Điều này cho thấy văn học thiếu nhi DTTS không phải là một “vùng trắng”, tuy nhiên, chưa được giới thiệu rộng rãi trong đời sống.
Văn học thiếu nhi DTTS đã thể hiện được những đóng góp riêng với những thành tựu nổi bật như:
Trong truyện viết cho thiếu nhi, chúng ta bắt gặp kho kiến thức phong phú đa dạng về cuộc sống sinh hoạt của đồng bào DTTS với nhiều nét độc đáo. Nhiều nét văn hóa của đồng bào Tày, Mông đi vào tác phẩm như: lễ tạ ơn thày thuốc, múa khèn, chơi pao, cảm ơn ân nhân, hát múa “xúa cành”… (Chân trời rộng mở, Con mốc của bác Luồng, Bản Ngườm Kim - Đoàn Lư); Việc kết nghĩa “lạo tồng” (Núi Bó Phạ trở về - Đoàn Lư); Truyền thống thờ cúng tổ tiên, sum họp gia đình trong ngày lễ tết (Đường về với mẹ chữ - Vi Hồng, Đêm giao thừa - Hữu Tiến). Tục buộc vía, lễ cúng Thành Hoàng làng, hội múa xòe (Làng nhỏ, Con trai bà chúa Nả, Quả nhạc xòe của mẹ - Hà Lâm Kỳ). Tục nhập Mẳn, nhập Thư thong cho những cây súng săn để cầu may mắn (Một cuộc đi săn - Hữu Tiến)... Thông qua việc phản ánh những phong tục tập quán này, các tác giả đã cung cấp cho trẻ em những tri thức về lối sống, tập quán của đồng bào mình, giáo dục ý thức tự hào về truyền thống và bản sắc văn hóa của quê hương, cộng đồng dân tộc mình.
Những trẻ em miền núi giàu nghị lực, biết vượt lên khó khăn để thực hiện ước mơ. Hà Lâm Kỳ với Kỷ vật cuối cùng, Đoàn Lư với Bên dòng Quây Sơn… bước đầu đã chú ý thể hiện thành công hình ảnh những trẻ em miền núi chất phác, hồn nhiên, nghĩa tình, có ý chí vươn lên và gắn bó với cách mạng. Các tác phẩm này khiến người đọc càng hiểu và yêu mến sự hồn nhiên, mộc mạc, đời sống tâm hồn bình dị nhưng thủy chung với cách mạng của con người vùng cao. Mỗi trang viết là một bài học sâu sắc giáo dục tình yêu quê hương và mỗi nhân vật là một tấm gương về tình cảm dành cho xứ sở. Mỗi truyện ngắn của Mã A Lềnh như một hiện thực sống động về những tâm hồn thiếu nhi trong sáng, thánh thiện, hồn hậu và đáng yêu như: Vênh (Cái đầu đất), Thồng (Thằng hổ giẫm), thằng Giê, thằng Giông (Con bọ sừng). Và cả với những biệt danh ngộ nghĩnh: thằng Lồ “bẹt đầu, thằng Dềnh “mũi lõ”, thằng Pó “ăn trộm”, thằng Nải “mò gái”, thằng Phái “thọt chân”, thằng Vần “khâu đít chuột”… Thông qua hình ảnh thằng bé củ mài, Mã A Lềnh muốn giới thiệu với bạn đọc tấm gương hiếu học đáng quý của thiếu nhi dân tộc Mông trên con đường nhọc nhằn đi tìm tri thức. Đó sẽ là những chủ nhân tương lai của dân tộc thắp lên ngọn lửa đưa dân tộc mình đến với tri thức của nhân loại.
Nhà văn Vi Hồng đã xây dựng thành công hình ảnh trẻ em miền núi có ý chí, nghị lực và khát khao thay đổi số phận của mình (Đường về với mẹ chữ, Thách đố, Người làm mồi bẫy hổ). Chúng ta khâm phục trước những tấm gương vượt khó vươn lên của những em nhỏ miền núi. Không chỉ thiếu thốn về vật chất mà các em còn phải đối diện với cả những nguy hiểm đe dọa đến tính mạng khi phải đi bộ hàng trăm cây số với đường rừng đầy thú dữ đón đợi, rình rập. Nhưng đó vẫn là một hạnh phúc - một hạnh phúc thật ngọt ngào bởi các em đã tìm về được với “Mẹ Chữ” - nơi sẽ chắp cánh cho những ước mơ của các em bay cao, bay xa đến với chân trời mới. Chính vì thế, ước mơ đến trường vẫn luôn ấp ủ trong tâm hồn những em nhỏ miền núi.
Thế giới thiên nhiên được miêu tả bằng cái nhìn hồn nhiên, trong trẻo qua các tác phẩm như: Núi Bó Phạ trở về của Đoàn Ngọc Minh, Ký ức rừng xanh của Kim Nhất, Mừng xuân của Dương Khâu Luông… Trong thế giới rộng lớn đó, biết bao loài cây cỏ cùng ngân vang khúc hát của rừng xanh: Măng/ vót chông/ vót đũa/ Thông/ đứng giữa trời/ Lá/ thổi như mưa/ Nứa/ ôm nhau gáy/ Trúc/ cái cúc/ đầy ngực… (Mừng xuân, mừng Tết - Lò Ngân Sủn).
Tất cả đã tạo nên một thế giới thảo mộc sinh động, hấp dẫn, mới lạ, muôn hình vạn trạng dưới con mắt trẻ thơ.
Với những thành tựu và đóng góp của mình, văn học thiếu nhi DTTS xứng đáng có một vị trí trong dòng chảy văn học thiếu nhi Việt Nam.
Kết luận
Nhìn chung, văn học thiếu nhi DTTS đã phản ánh được đời sống tâm hồn trẻ thơ miền núi khá đa dạng và phong phú. Nó có ý nghĩa giáo dục quan trọng và mang một bản sắc riêng độc đáo, hấp dẫn. Tuy ở một số tác phẩm, chất lượng nghệ thuật vẫn là vấn đề còn phải bàn luận, nhưng giá trị và đóng góp của văn học thiếu nhi DTTS trong đời sống văn học nước nhà là một điều cần được khẳng định.
Với sự nghiên cứu, giới thiệu của các nhà nghiên cứu và những chủ trương, chính sách của Nhà nước cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo, văn học thiếu nhi DTTS dần dần đã góp mặt trong đời sống xã hội, trong chương trình giáo dục phổ thông. Đây là sự thay đổi rất đáng trân trọng trong sự tiếp nhận văn học DTTS nói chung và văn học thiếu nhi DTTS nói riêng trong đời sống hiện nay. Hy vọng rằng, cùng với sự mở rộng tiếp nhận này, văn học thiếu nhi DTTS sẽ ngày càng được tiếp cận rộng rãi hơn để trở thành món ăn tinh thần phổ biến trong phạm vi đọc của trẻ em, nhất là trẻ em DTTS. Rất cần có những công trình nghiên cứu chuyên sâu, những tác phẩm văn học thiếu nhi DTTS chọn lọc ra mắt để giới thiệu, định hướng cho bạn đọc nhỏ tuổi về một vùng văn học giàu bản sắc văn hoá. Từ đó, khẳng định những đóng góp của các tác giả văn học DTTS viết cho thiếu nhi vào dòng chảy chung của văn học hiện đại nước nhà. Góp phần định vị văn học thiếu nhi DTTS trên bản đồ văn học thiếu nhi Việt Nam.
________________
1. Vân Thanh (biên soạn), Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2002, tr.6.
2. Nguyễn Văn Hùng, Văn học thiếu nhi - khoảng trống và hướng đi, qdnd.vn, 6-2-2020.
3. Xem thêm Cao Thị Hảo (chủ biên), Đào Thủy Nguyên (tham gia), Văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2020.
4. Xem thêm Cao Thị Hảo, Diện mạo văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 7 (533), 2016, tr.15-23.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, Hà Nội, 2018, tr.91.
6. Nguyễn Minh Thuyết (Tổng chủ biên), Đỗ Ngọc Thống (chủ biên) và các cộng sự, Ngữ văn 6, bài 9, phần Thực hành đọc hiểu, tập hai, Nxb Giáo dục, 2021.
7. Nguyễn Thị Hồng Nam (chủ biên) và các cộng sự, Ngữ văn 6, bài 7, chủ đề Gia đình yêu thương, tập hai, Nxb Giáo dục, 2021.
8. Bùi Mạnh Hùng (Tổng chủ biên), Nguyễn Thị Ngân Hoa (chủ biên) và các cộng sự, Ngữ văn 6, bài 10, mục Gặp gỡ tác giả, tập hai, Nxb Đại học Sư phạm TP.HCM, 2021.
PGS, TS CAO THỊ HẢO - Ths PHẠM KIM THOA
Nguồn: Tạp chí VHNT số 494, tháng 4-2022