Nam Đông là huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên Huế, có hai dân tộc chủ yếu cùng sinh sống là Kinh và Cơ Tu, trong đó đồng bào dân tộc Cơ Tu chiếm 43% dân số toàn huyện. Đời sống tín ngưỡng, phong tục tập quán, hoạt động sản xuất, canh tác, lễ hội, trang phục, kiến trúc, hoa văn của đồng bào dân tộc Cơ Tu... là những giá trị văn hóa độc đáo và vô cùng quan trọng . Do đó, việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, tôn tạo các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống làm cho giá trị văn hóa thực sự trở thành động lực cho sự phát triển bền vững là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết trong thực tiễn hiện nay.
Sinh hoạt văn hóa tại nhà Gươl
Khơi dậy những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Cơ Tu
Đặc trưng văn hóa nổi bật của Nam Đông chính là các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số Cơ Tu. Sự gắn bó của đồng bào với núi rừng và sự thích nghi với môi trường đã tạo nên những nét riêng, đặc biệt là lối sống, kiến trúc nhà ở, nhà cộng đồng, hệ thống tri thức dân gian, các nghề thủ công truyền thống, trang phục, ẩm thực... mang đặc trưng vùng miền rõ nét. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, sự giao thoa văn hóa đã làm cho không ít giá trị văn hóa truyền thống mai một, mất dần bản sắc. Chính vì vậy, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, điều có ý nghĩa sống còn là giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, truyền thống và đổi mới. Có như vậy mới có thể phát triển bền vững kinh tế xã hội.
Nhận thức rõ vị trí, ý nghĩa, vai trò quan trọng của văn hóa và công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, trong những năm qua, huyện Nam Đông đã có nhiều giải pháp triển khai thực hiện công tác sưu tầm, lưu giữ, bảo tồn các loại văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc bản địa. Từ những chủ trương, chính sách chung của Trung ương, của tỉnh, huyện đã triển khai thành những chương trình, dự án, kế hoạch cụ thể và thực hiện đạt được những kết quả có ý nghĩa trong thực tiễn. Trong đó, tập trung xây dựng các mô hình làng, bản, thôn văn hóa truyền thống; tổ chức liên hoan Gia đình văn hóa, làng, bản văn hóa. Hằng năm, cử các nghệ nhân trên địa bàn tham gia và thực hành tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam tại Hà Nội, chú trọng phân loại các loại hình di sản văn hóa phi vật thể chủ yếu như nghệ thuật dân gian (dân ca, dân vũ, dân nhạc), tri thức dân gian, các nghề thủ công, các lễ hội, phong tục tập quán, chữ viết, ngôn ngữ của dân tộc Cơ Tu với 11 lớp, 495 học viên được đào tạo và cấp chứng chỉ về học tiếng Cơ Tu cho cán bộ, công chức, viên chức người Kinh công tác trên địa bàn; mở 9 lớp truyền dạy cồng chiêng, đan lát, dệt Zèng, sản phẩm hàng lưu niệm từ mây tre; tổ chức lớp đứng điểm về du lịch cho 230 học viên. Tổ chức sưu tầm hiện vật của người Cơ Tu ở 6 xã định canh định cư phục vụ cho việc tham quan, học tập và nghiên cứu tại Nhà văn hóa dân tộc huyện; phục dựng lại 3 nhà Gươi của người Cơ Tu. Cùng với đó, các phong tục tập quán, các loại hình văn hóa dân gian, nghi thức mừng lúa mới, vào nhà mới, Bhơnooch, Babooch, Cha chấp, Kalới… đã được bảo tồn về cơ bản với mục tiêu xây dựng đội ngũ kế cận biết sử dụng và phát huy các giá trị văn hóa của chính đồng bào mình để làm giàu cho bản thân và quê hương.
Bên cạnh đó, địa phương cũng là một trong hai đơn vị luân phiên đăng cai tổ chức Ngày hội văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế 2 năm một lần. Ngày hội đã trở thành một sân chơi không thể thiếu để các đội văn nghệ truyền thống của huyện được giao lưu, phô diễn những nét đẹp, độc đáo, bản sắc riêng của đồng bào Cơ Tu và quan trọng hơn cả là được thực hành, tại “sân chơi” lớn ở quy mô cấp tỉnh nhằm “kiểm chứng” những kết quả đạt được của địa phương trong công tác bảo tồn, gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc Cơ Tu.
Một số giải pháp cơ bản
Bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc Cơ Tu thực sự là động lực quan trọng, góp phần xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội phát triển còn chậm, mặt bằng trình độ dân trí thấp, các thiết chế văn hóa chưa được đầu tư đồng bộ, một số địa phương trên địa bàn huyện chưa nhận thức rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của văn hóa bản địa đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, dẫn đến sự thiếu quan tâm đầu tư, khai thác nguồn lực cho phát triển văn hóa; tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước vẫn còn tồn tại ở một bộ phận cán bộ và nhân dân, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự năng động, sáng tạo trong xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và ý thức tự giác giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc. Công tác xã hội hóa văn hóa nói chung và bảo tồn di sản văn hóa nói riêng, nhất là bảo tồn văn hóa phi vật thể còn gặp nhiều khó khăn. Ngân sách đầu tư cho công tác bảo tồn còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn; cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động văn hóa chưa đồng bộ, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác văn hóa ở cơ sở còn nhiều hạn chế… Bên cạnh đó, một số nghệ nhân cao tuổi am hiểu văn hóa truyền thống đã qua đời, dẫn đến một số loại hình văn hóa dân gian bị mai một. Sự tác động của cơ chế thị trường, sự xâm nhập của nhiều loại hình văn hóa từ bên ngoài, sự chuyển đổi cơ cấu lao động, ngành nghề đã tác động sâu sắc về diện mạo, bản sắc văn hóa của người Cơ Tu.
Để tiếp tục triển khai có hiệu quả công tác giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc Cơ Tu, đồng thời nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lý nhà nước về văn hóa, cần tập trung thực hiện đồng bộ, toàn diện một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm sau:
Phát huy vai trò chủ thể của đồng bào trong việc nhân rộng mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống. Qua đó, trang bị phương pháp, kỹ năng tổ chức bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống cho các nghệ nhân, người có uy tín, học viên là người dân tộc thiểu số. Nâng cao hiệu quả nguồn lực đầu tư của Nhà nước, xã hội và cộng đồng vào công tác bảo tồn.
Đẩy mạnh vai trò công tác quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống gắn với du lịch, đưa du lịch thành thế mạnh của địa phương, nâng cao hiệu quả thực tiễn của các hoạt động bảo tồn, trong đó cần chú trọng đến nguyên tắc “bảo tồn sống” – tức là bảo tồn các loại hình văn hóa phi vật thể ngay trong đời sống cộng đồng.
Tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về các giá trị văn hóa truyền thống, gắn lợi ích của người dân khi tham gia các hoạt động bảo tồn, phát triển văn hóa để người dân tham gia lưu giữ di sản văn hóa truyền thống gắn với xã hội hóa công tác bảo tồn và phát triển văn hóa.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác bảo tồn, thực hiện tốt công tác kiểm kê, lập hồ sơ các di sản văn hóa phi vật thể một cách khoa học và có hệ thống qua việc tư liệu hóa, số hóa hệ thống di sản nhằm nhận diện và xác định mức độ tồn tại, giá trị và sức sống của từng loại di sản văn hóa trong cộng đồng, trên cơ sở đó đề xuất phương án bảo tồn, phát huy hiệu quả.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác sưu tầm, biên soạn, quản lý lâu dài và phổ biến các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các tập thể, cá nhân tổ chức các hoạt động biễu diễn nghệ thuật truyền thống và truyền dạy nghề trên cơ sở khai thác, phổ biến nghệ thuật truyền thống.
Đề cao vai trò của các nghệ nhân, người có uy tín, già làng, trưởng bản trong cộng đồng tham gia với vai trò then chốt. Tổ chức có hiệu quả hoạt động truyền dạy, bồi dưỡng, tập huấn, các hội thi sáng tác, khuyến khích bằng tiếng dân tộc. Thường xuyên đăng tải và giới thiệu văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu qua hệ thống truyền thông đại chúng.
Hành trình bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống về đúng “quỹ đạo” vốn có, còn lắm những gian nan nhưng là việc làm cần thiết nhằm đưa những di sản văn hóa của đồng bào trở lại với đời sống cộng đồng. Qua đó, khơi dậy tình yêu, niềm tự hào của đồng bào với di sản văn hóa, đó cũng chính là thể hiện tâm tư, nguyện vọng của đồng bào về xây dựng lối sống lành mạnh, văn minh, giàu bản sắc, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá, góp phần thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
HẰNG NGUYỄN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 537, tháng 6-2023