• Văn hóa > Du lịch

Bảo vệ, phát huy giá trị di tích Nhà tù Sơn La gắn với phát triển du lịch bền vững

Di tích lịch sử văn hóa được coi là tài nguyên, nguồn lực để phát triển du lịch. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để các di tích lịch sử văn hóa thực sự trở thành những điểm đến du lịch hấp dẫn. Từ nhiều năm qua, câu hỏi này đã và đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của những nhà quản lý, người làm công tác di sản văn hóa và du lịch… Góp phần đi tìm lời giải cho câu hỏi này với trường hợp di tích Nhà tù Sơn La, bước đầu bài viết điểm qua thực trạng bảo vệ, phát huy giá trị di tích, qua đó đề xuất một số giải pháp xây dựng di tích trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn ở Sơn La.

Gốm sứ Chu Đậu và văn hóa du lịch

Chu Đậu là vùng quê nằm bên tả ngạn sông Thái Bình thuộc trấn Thương Triệt, huyện Thanh Lâm, Nam Sách Châu, nay là làng Chu Đậu, xã Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Xưa kia, Chu Đậu là vùng Trần triều Hải khấu (cảng nhà Trần). Theo chữ Hán, Chu là thuyền, Đậu là bến (bến thuyền đỗ). Nơi đây, thuyền bè ra vào tấp nập. Từ Chu Đậu, xuôi sông Thái Bình đến Nấu Khê, sang sông Kinh Thày ra cảng Vân Đồn, một cảng giao lưu với các nước của người Việt xưa. Cũng từ Chu Đậu, xuôi sông Thái Bình sang sông Luộc đến Phố Hiến về Thăng Long cũng là một thương cảng lớn từ TK XVII.

Đặc tính nhân khẩu của khách tham quan hai di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam

Du lịch di sản là một trong những ngành quan trọng của du lịch toàn cầu, một số nghiên cứu đã được thực hiện nhằm tìm hiểu các loại hình du khách liên quan. Kết quả nghiên cứu chứng minh khách du lịch di sản đa phần từ tầng lớp trung lưu, độ tuổi trung niên và trình độ học vấn tốt. Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu chú trọng đến việc xác định thuộc tính du khách tại các khu di sản thế giới. Những nghiên cứu trong bài viết này nhằm xác định đặc tính nhân khẩu của du khách qua phương pháp phỏng vấn bảng hỏi tại 2 khu di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam: Hoàng thành Thăng Long và thành nhà Hồ. Thông qua phân tích thống kê, những điểm tương đồng và khác biệt về đặc điểm nhân khẩu và hành vi của du khách, qua đó cung cấp nền tảng cho những nghiên cứu tại những khu di sản văn hóa thế giới khác.

Về một xu hướng tham quan, du lịch của người Hà Nội

Trong bối cảnh hiện nay, nhu cầu tham quan, du lịch của người Hà Nội đang biến đổi theo những xu hướng khác nhau, trong đó có xu hướng tham quan, du lịch dịp tết Nguyên đán. Trước đây, theo thông lệ, tết Nguyên đán là thời điểm để gia đình, người thân, bạn bè quây quần sum họp bên nồi bánh chưng, cây hoa đào, khay mứt tết, bên bữa cơm gia đình đầm ấm. Đó cũng là thời điểm mà mỗi người mong muốn được quay trở về nhà sau những tháng ngày đi làm, đi học ở xa. Không biết từ bao giờ, tết được gắn liền với ước mong trở về dưới mái nhà ấm cúng. Tuy nhiên, từ vài năm trở lại đây, ở các thành phố lớn, đặc biệt là ở Hà Nội, người dân có xu hướng đi tham quan, du lịch ở những địa điểm vui chơi, giải trí, tâm linh vào dịp tết Nguyên đán.

Sử dụng ngôn ngữ tộc người trong truyền thông bảo vệ môi trường

Bảo vệ môi trường nói chung, tài nguyên rừng nói riêng là trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị được nhà nước giao trách nhiệm thực hiện với chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Đối với trường hợp vườn quốc gia Cát Tiên (VQGCT), do đặc điểm gắn với môi trường sống của các tộc người thiểu số bản địa, nên cần nghiên cứu văn hóa của cộng đồng để đem lại hiệu quả thực tế. Từ dữ liệu khảo sát, bài viết đề xuất sử dụng ngôn ngữ của dân tộc bản địa để nâng cao hiệu quả trong truyền thông về môi trường.

TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI KHU TRUNG TÂM HOÀNG THÀNH THĂNG LONG

Hoàng thành Thăng Long là di sản vật thể duy nhất được UNESCO công nhận là di sản văn hóa (DSVH) thế giới ở Hà Nội năm 2010. Nhưng đến nay số lượng khách tham quan đến với khu di sản này còn khiêm tốn. Trong thời gian dài, chúng ta mới nhìn nhận di sản ở góc độ bảo tồn, mà chưa quan tâm nhiều đến phát huy giá trị nguồn lực vô giá này trong phát triển kinh tế, đặc biệt là về du lịch. Du lịch khi được đầu tư và tổ chức hoạt động đúng hướng, sẽ góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản trong đời sống cộng đồng, là hướng đi tích cực cho công tác quản lý di sản.

KHAI THÁC TIỀM NĂNG DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA, DANH THẮNG TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH THANH HÓA

Nằm ở khu vực Bắc Trung Bộ, cách Hà Nội 150km về phía nam, Thanh Hóa là vùng đất có tiềm năng du lịch tự nhiên, phong phú, đặc sắc. Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi, đây được xem là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi khởi phát của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, Thanh Hóa trở thành điểm hội tụ của nhiều tộc người với những sắc màu văn hóa đa dạng. Chính đặc điểm lịch sử, vị trí đã khiến Thanh Hóa còn lưu giữ được nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể vô cùng quý giá, là nguồn tài nguyên to lớn để phát triển du lịch.

PHỦ TÂY HỒ - ĐIỂM ĐẾN CỦA DU LỊCH TÂM LINH

Du lịch tâm linh (DLTL) là một khái niệm còn mới với người dân và ngành du lịch Việt Nam, tuy nhiên, hoạt động DLTL đã và đang trở thành xu hướng phổ biến và đa dạng, không chỉ gắn với tôn giáo mà ngày càng mở rộng tới các sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng cổ truyền và các yếu tố linh thiêng khác.Phủ Tây Hồ là nơi thờ Tiên Chúa Liễu Hạnh, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng Việt Nam. Khách DLTL đến phủ trong những năm gần đây rất đa dạng, nhiều tầng lớp và lứa tuổi khác nhau, nhưng cùng chung mục đích là được trải nghiệm, củng cố đức tin hướng tới những giá trị tốt đẹp: chân, thiện, mỹ, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở XỨ THANH TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH

Thanh Hóa không chỉ là nơi sinh tụ của người Việt cổ mà còn là vùng đất mang đầy đủ những mốc lịch sử nổi tiếng đánh dấu các giai đoạn phát triển quan trọng của dân tộc. Vùng đất này từ tự nhiên đến văn hóa đều thấm đượm màu sắc lịch sử nên có điều kiện hình thành, bảo lưu được nhiều giá trị văn hóa truyền thống, trong đó lễ hội là một loại hình tiêu biểu. Tuy nhiên, cho đến nay, số lễ hội truyền thống được đưa vào khai thác, phục vụ phát triển du lịch ở xứ Thanh chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Trên cơ sở đặc trưng của lễ hội, bài viết đề xuất hệ tiêu chí làm cơ sở lựa chọn những lễ hội truyền thống tiêu biểu phục vụ phát triển du lịch, kinh tế xã hội địa phương.

VƯỜN QUỐC GIA U MINH THƯỢNG, NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI

Vườn quốc gia U Minh Thượng thuộc huyện U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang với diện tích 21.107 ha, trong đó vùng lõi chiếm 8.038 ha, vùng đệm 13.069ha. Vườn quốc gia U Minh Thượng là vườn quốc gia thứ 5 của Việt Nam được công nhận là Vườn Di sản ASEAN. Đây cũng là vườn di sản trên đất than bùn đầu tiên của khu vực. Ngoài ra, nơi đây còn là khu Ramsar (vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế về sinh học và bảo tồn) thứ 8 của Việt Nam và thứ 2.228 của thế giới. Đây là khu rừng với hệ sinh thái rừng nhiệt đới ngập nước thuộc loại hiếm trên thế giới với nhiều loài động thực vật. Bên cạnh đó, nơi đây còn có nhiều khu căn cứ địa cách mạng của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Từ năm 2015 đến nay, vườn quốc gia U Minh Thượng đã tập trung khai thác nguồn lực văn hóa này vào phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái nhằm thu hút du khách trong nước và quốc tế đến thăm quan, nghĩ dưỡng.

KHAI THÁC GIÁ TRỊ MÙA NƯỚC NỔI VÀO HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở ĐỒNG THÁP

Đồng Tháp là một trong những tỉnh đón nhận nước từ thượng nguồn sông Mekong đổ về đầu tiên so với các tỉnh khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Mùa nước nổi không chỉ là hiện tượng tự nhiên mà còn được xem là một nét văn hóa đặc trưng của vùng sông nước Đồng Tháp. Những năm qua, nguồn tài nguyên thiên nhiên này đã được ngành du lịch của tỉnh khai thác để phát triển du lịch. Việc khai thác hiệu quả giá trị mùa nước nổi góp phần quan trọng tạo nên thương hiệu du lịch của tỉnh, có thể đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mạnh, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững du lịch Đồng Tháp trong thời kỳ hội nhập.