Một số vấn đề về đào tạo hướng dẫn viên du lịch đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của nhóm ngành dịch vụ. Trong đó, du lịch là một trong những ngành có vị trí quan trọng nhất. Việc nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của hướng dẫn viên du lịch (HDVDL), cũng như việc bổ sung vào hành lang mang tính pháp lý cho hoạt động đào tạo nghề hướng dẫn viên và đề xuất các giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ HDVDL sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đưa ngành Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Bài viết trình bày quan điểm về nhu cầu đào tạo, các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo HDVDL và phát triển du lịch trong bối cảnh hội nhập hiện nay ở Việt Nam.

Ảnh: Khoa Du Lịch - Trường ĐH Văn hóa TP.HCM

 1. Một số vấn đề cơ bản về hướng dẫn du lịch và HDVDL

Hướng dẫn du lịch là một loại dịch vụ du lịch, được các doanh nghiệp lữ hành tổ chức phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan du lịch của du khách. Thông qua dịch vụ hướng dẫn, HDVDL làm thỏa mãn nhu cầu tham quan của du khách.

Hướng dẫn du lịch là một hoạt động phức tạp, bao gồm các mặt như: cung cấp thông tin cho quảng cáo, tiếp thị du lịch, đón tiếp khách và phục vụ khách, giới thiệu các đối tượng tham quan du lịch trong chuyến du lịch, phục vụ khách về các dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận chuyển, mua sắm… Những vấn đề phát sinh trước, trong và sau chuyến đi của du khách, cũng có sự tham gia của hoạt động hướng dẫn. Do đó, hoạt động hướng dẫn du lịch là một loại dịch vụ đặc trưng của hoạt động du lịch nói chung và do các tổ chức cung cấp dịch vụ du lịch tiến hành...

Bằng hoạt động hướng dẫn, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ du lịch sau khi đã có hợp đồng thỏa thuận đảm bảo phục vụ, thỏa mãn nhu cầu của khách theo chương trình nhất định. Hoạt động này cuốn hút các bộ phận chức năng, nghiệp vụ có liên quan tới các mặt công tác khác, song chủ yếu vẫn là thông qua các HDVDL. Phần lớn các hoạt động hướng dẫn du lịch được thực hiện bởi các HDVDL. Do vậy HDVDL không phải là chủ thể duy nhất thực hiện hoạt động du lịch, nhưng là chủ thể chủ yếu, quan trọng, không thể thiếu thực hiện hoạt động hướng dẫn du lịch.

HDVDL là người hoạt động trong ngành dịch vụ du lịch, thực hiện hoạt động hướng dẫn du lịch bằng việc cung cấp thông tin, kết nối dịch vụ phục vụ khách du lịch, hướng dẫn và hỗ trợ khách du lịch bằng cách sử dụng ngôn ngữ đã lựa chọn để trình bày, giới thiệu và giải thích những thông tin chính xác nhất về các địa điểm, điển tích, điển cố, di sản văn hóa và thiên nhiên của một vùng, một khu vực liên quan đến mục đích du lịch của du khách. Thông qua HDVDL, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành tổ chức thực hiện và đảm bảo các điều khoản nội dung được ký kết, thỏa thuận trong hợp đồng cung ứng dịch vụ du lịch lữ hành, mang lại doanh thu cho doanh nghiệp lữ hành, đồng thời cung cấp những thông tin liên quan đến các điểm đến, điểm tham quan du lịch trong suốt chuyến hành trình.

Tiêu chuẩn HDVDL

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: HDVDL cần được trang bị kiến thức về lĩnh vực hoạt động, thành thạo các kỹ năng, tay nghề, nghiệp vụ chuyên môn, kiến thức pháp luật… từ đó, tránh được những sai sót trong quá trình phục vụ. Ở Việt Nam, căn cứ vào trình độ chuyên môn đào tạo HDVDL theo quy định của pháp luật hiện hành được phân thành ba loại: HDVDL quốc tế, được hướng dẫn cho khách du lịch nội địa, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong phạm vi toàn quốc và đưa khách du lịch ra nước ngoài. Tốt nghiệp cao đẳng trở lên chuyên ngành Hướng dẫn du lịch. Trường hợp tốt nghiệp cao đẳng trở lên chuyên ngành khác phải có chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch quốc tế; HDVDL nội địa được hướng dẫn cho khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam trong phạm vi toàn quốc. Tốt nghiệp trung cấp trở lên chuyên ngành Hướng dẫn du lịch. Trường hợp tốt nghiệp trung cấp trở lên chuyên ngành khác phải có chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch nội địa; HDVDL tại điểm được hướng dẫn cho khách du lịch trong phạm vi khu du lịch, điểm du lịch. Họ là người làm công việc thuyết minh, hướng dẫn du khách trong phạm vi khu du lịch, điểm du lịch bao gồm các di tích, khu bảo tồn thiên nhiên, bảo tàng... HDVDL tại điểm thực chất là lực lượng thuyết minh viên du lịch được xác định tên mới, phù hợp với thông lệ quốc tế, tránh trùng lặp với lực lượng thuyết minh viên bảo tàng, đồng thời, thể hiện rõ được vai trò và bản chất công việc của người hành nghề hướng dẫn du lịch tại khu du lịch, điểm du lịch. Đối với HDVDL tại điểm không quy định yêu cầu về trình độ, tuy nhiên, để được cấp thẻ, người đề nghị phải đạt yêu cầu kiểm tra về nghiệp vụ hướng dẫn du lịch tại điểm do Sở VHTTDL tổ chức và cấp thẻ.

Trình độ ngoại ngữ: Theo quy định, HDVDL quốc tế phải là người sử dụng thành thạo ngoại ngữ để đăng ký hành nghề. Người thông thạo ngoại ngữ đáp ứng một trong các tiêu chuẩn: Có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên chuyên ngành Ngoại ngữ; Có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên theo chương trình đào tạo bằng tiếng nước ngoài; Có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên ở nước ngoài theo chương trình đào tạo bằng ngôn ngữ chính thức của nước sở tại. Trường hợp được đào tạo bằng ngôn ngữ khác với ngôn ngữ chính thức của nước sở tại, cần bổ sung giấy tờ chứng minh ngôn ngữ được sử dụng để đào tạo; Có chứng chỉ ngoại ngữ bậc 4 trở lên theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc có chứng chỉ ngoại ngữ đạt mức yêu cầu theo quy định, còn thời hạn, do tổ chức, cơ quan có thẩm quyền cấp.

Một số yêu cầu khác: ngoài các yêu cầu trên, HDVDL cần đảm bảo một số yêu cầu như: ngoại hình, sức khỏe, khả năng giao tiếp tốt, hiểu biết tâm lý, có kiến thức chung về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội, âm nhạc, hội họa, nghệ thuật, thể thao, am hiểu về tài nguyên du lịch tại các điểm đến; có đạo đức nghề nghiệp, nhạy bén trong việc xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình phục vụ; được đào tạo về nghiệp vụ hướng dẫn du lịch...

2. Thực trạng HDVDL và một số vấn đề đặt ra

Trước tiên, việc thiếu về số lượng và yếu về chất lượng HDVDL là vấn đề nan giải. Một bộ phận hướng dẫn viên có trình độ nghiệp vụ, nhưng kỹ năng nghề chưa đáp ứng được nhu cầu phục vụ khách du lịch, nhất là khách quốc tế. HDVDL còn yếu về năng lực ngoại ngữ và thiếu về số lượng; chủ yếu sử dụng ngoại ngữ là tiếng Anh, trong khi đó đội ngũ hướng dẫn viên tiếng Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Ý… chưa đáp ứng đủ số lượng. Đội ngũ hướng dẫn viên tiếng Pháp, Đức, Tây Ban Nha còn thiếu và hầu hết đã lớn tuổi. Việc yếu về năng lực ngoại ngữ làm cho hướng dẫn viên mất tự tin trong giao tiếp, không hiểu rõ ý khách hàng, ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ hoặc có những hiểu nhầm trong quá trình phục vụ.

Hai là, nằm ở vùng nhiệt đới, nơi có nhiều cảnh quan đặc sắc và các hệ sinh thái điển hình, với nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, Việt Nam có tiềm năng rất lớn về du lịch nói chung và du lịch sinh thái nói riêng. Theo Quy chế “Quản lý các hoạt động du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên (Ban hành kèm theo Quyết định số 104/2007/QĐ-BNN, ngày 27-12-2007 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên có hoạt động du lịch sinh thái có trách nhiệm bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác hướng dẫn viên, thuyết minh du lịch sinh thái. Thực tế, hướng dẫn viên ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên thường là cán bộ kiêm nhiệm vừa làm công tác quản lý rừng, vừa làm công tác hướng dẫn viên với số lượng rất ít, chưa được đào tạo nghiệp vụ và số lượng không ổn định tùy theo yêu cầu của khách du lịch và có tính mùa vụ. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu về du lịch sinh thái ở Việt Nam, sự phát triển du lịch sinh thái ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên hiện còn chưa tương xứng với tiềm năng. Một trong số các nguyên nhân đó là sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chuyên môn, cụ thể là HDVDL sinh thái. Do đó, việc đánh giá thực trạng HDVDL sinh thái ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên làm cơ sở để đề xuất các giải pháp đào tạo HDVDL sinh thái là rất cần thiết. Khung đào tạo HDVDL ở các trường hầu hết giống nhau, với nội dung tổng thể cũng như ở các môn học. Sinh viên sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Hướng dẫn du lịch là những HDVDL với kiến thức cho tất cả các loại hình du lịch, không có chương trình đào tạo riêng biệt, chuyên sâu cho một loại hình du lịch nào. Chính vì vậy, HDVDL tại Việt Nam còn nhiều hạn chế khi thuyết minh về từng chuyên đề cụ thể, điển hình nhất là kiến thức về các tài nguyên du lịch sinh thái.

Ba là, điều 59 Luật Du lịch hiện hành 2017 quy định về điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên xác định có 3 loại thẻ và phân định chức năng của từng loại thẻ. Trong đó, HDVDL nội địa không được hành nghề hướng dẫn du lịch cho người nước ngoài chủ yếu dựa vào một số tiêu chí như ngoại ngữ, có bằng cao đẳng, đại học... Nhưng thực tế, rất nhiều người được cấp thẻ HDVDL nội địa có trình độ ngoại ngữ giỏi vẫn có thể hoàn thành hướng dẫn nếu họ có kiến thức, hiểu biết về tài nguyên du lịch. Trên thế giới có rất nhiều ngôn ngữ khác nhau, hiện nay người Việt Nam chỉ biết một số ngoại ngữ chính (hoặc là hướng dẫn viên chỉ biết một số ngoại ngữ nhất định) nếu có đoàn khách lạ, các hướng dẫn viên không có trình độ ngoại ngữ thì theo quy định không được hướng dẫn hoặc dẫn đến không tổ chức đón khách. Bên cạnh đó, quy định về người nước ngoài hiện nay rất rộng, trong đó có cả người Việt Nam hoặc người nước ngoài biết tiếng Việt, như vậy không chỉ bản thân người hướng dẫn viên đang hành nghề phải đặt mình vào việc tự đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, bên cạnh đó cũng là vấn đề đặt ra đối với cơ sở giáo dục nói chung, cơ sở giáo dục đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch nói riêng cũng phải chuyển mình xây dựng các chương trình bồi dưỡng, chương trình liên thông trình độ từ trung cấp, cao đẳng lên đại học phù hợp, linh hoạt để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Với mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trình độ cao đẳng, đại học trở lên trong lĩnh vực du lịch, các trường đại học trong cả nước đang tham gia vào việc đào tạo nhân lực ngành Du lịch, trong đó có đào tạo HDVDL. TP.HCM có 15 đơn vị gồm các trường từ trung cấp đến đại học, tổ chức đào tạo các chuyên ngành Hướng dẫn du lịch và cung ứng ra các thị trường lao động trong cả nước nói chung và thành phố nói riêng với số lượng HDVDL khá lớn. Tuy nhiên, theo nhận định của các chủ doanh nghiệp, nhà tuyển dụng, hay đánh giá trực tiếp của khách du lịch thì nhóm tham gia trực tiếp trong hoạt động hướng dẫn du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành, vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng (1), còn gây lãng phí xã hội trong việc đào tạo hướng dẫn du lịch. Cụ thể, trong Thông tư số 09/2022/TT-BGDĐT ngày 6-6-2022 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Quy định Danh mục thống kê ngành đào tạo của giáo dục đại học, trong đó mã ngành 781 về đào tạo Du lịch, khách sạn, thể thao và dịch vụ cá nhân, nhưng không quy định về mã ngành Hướng dẫn du lịch trình độ đại học. Trong khi đó, Thông tư số 2626/2020/ TT-BLĐTBXH ngày 30-12-2020 của Bộ Lao động, thương binh và xã hội Ban hành danh mục ngành, nghề đào tạo cấp IV trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng quy định mã ngành 581 về đào tạo Du lịch, khách sạn, thể thao và dịch vụ cá nhân có ghi nhận mã ngành Hướng dẫn du lịch (Tour guide), trình độ trung cấp mã số 5810103, trình độ cao đẳng mã số 68101. Điều này dẫn đến một thực trạng sinh viên tốt nghiệp đại học các ngành Du lịch được cấp mã 7810101 - Du lịch; mã 7810103 - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành, nếu muốn hành nghề HDVDL thì đều phải thi chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch nội địa nếu là hướng dẫn viên nội địa hoặc chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch quốc tế đối với hướng dẫn viên quốc tế. Còn người học bậc cao đẳng, trung cấp vì đã có mã ngành nên sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Hướng dẫn du lịch thì không phải thi chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch. Đối chiếu với quy định trong: (i) nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ hướng dẫn du lịch nội địa gồm: Kiến thức cơ sở ngành: địa lý Việt Nam, lịch sử Việt Nam, văn hóa Việt Nam, hệ thống chính trị Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan đến du lịch; Kiến thức chuyên ngành và nghiệp vụ: tổng quan du lịch, khu du lịch, điểm du lịch Việt Nam, tâm lý khách du lịch, nghệ thuật giao tiếp và ứng xử trong hướng dẫn du lịch, kỹ năng nghiệp vụ hướng dẫn, y tế du lịch; Thực hành kỹ năng nghiệp vụ hướng dẫn và thực tế nghề nghiệp cuối khóa; (ii) nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ hướng dẫn du lịch quốc tế gồm: Kiến thức cơ sở ngành: địa lý Việt Nam, lịch sử Việt Nam, văn hóa Việt Nam, hệ thống chính trị Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan đến du lịch; Kiến thức chuyên ngành và nghiệp vụ: tổng quan du lịch, khu du lịch, điểm du lịch Việt Nam, tâm lý khách du lịch, giao lưu văn hóa quốc tế, nghệ thuật giao tiếp và ứng xử trong hướng dẫn du lịch quốc tế, kỹ năng nghiệp vụ hướng dẫn, y tế du lịch; xuất nhập cảnh, hàng không và lưu trú, lễ tân ngoại giao; Thực hành kỹ năng nghiệp vụ hướng dẫn và thực tế nghề nghiệp cuối khóa (2)... Đây là những nội dung mà sinh viên ngành Du lịch khi theo học ở cơ sở giáo dục bậc đại học đều được trang bị trong chương trình đào tạo. Điều mà các cơ sở giáo dục đại học còn thiếu, buộc sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Du lịch phải đi học chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch như hiện nay là mã ngành đào tạo hướng dẫn du lịch hiện Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa cập nhật, chưa có trong quy định. Trong khi đó, xét cả về cơ sở vật chất, nguồn học liệu, đội ngũ giảng viên giảng dạy, trình độ chuyên môn và nhu cầu xã hội thì ở bậc đại học, các cơ sở giáo dục có đào tạo chuyên ngành đào tạo về ngành Du lịch cơ bản đều đáp ứng được.

Nguyên nhân của những bất cập, tồn tại do: chất lượng HDVDL chưa đồng đều giữa các vùng, miền, giữa các công ty lữ hành; công tác quản lý đội ngũ HDVDL còn lỏng lẻo, chưa nhận thức được mối quan hệ giữa chất lượng sản phẩm với vai trò của người hướng dẫn viên; cơ sơ đào tạo hướng dẫn viên chưa theo kịp tình hình phát triển du lịch và nhu cầu của khách du lịch; một số hướng dẫn viên chạy theo cơ chế thị trường, tha hóa biến chất… Ngoài yếu tố chủ quan của hướng dẫn viên, công ty, cơ sở đào tạo, còn có một phần nguyên nhân các văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động trong lĩnh vực du lịch còn chưa có tầm nhìn dài hơi, quá trình áp dụng chế tài trong xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm của HDVDL ở một số nơi còn chưa kịp thời, nghiêm minh.

3. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc đào tạo HDVDL góp phần phát triển du lịch Việt Nam

Thứ nhất, chương trình đào tạo ngành Du lịch phải là chương trình liên ngành cung cấp kiến thức toàn diện cho người học. Trong kiến thức và kỹ năng về phát triển bền vững chương trình đào tạo cần có chuẩn đầu ra về bảo vệ nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, thời lượng chiếm 3-4% và cần tích hợp chuyên đề bảo vệ tài nguyên môi trường vào các môn học chuyên ngành.

Hoàn thiện chương trình ngành Du lịch theo hướng ứng dụng, quốc tế hóa theo định hướng chuẩn quốc gia và khu vực, kiểm định chương trình đào tạo ngành Du lịch theo khung trình độ quốc gia về đào tạo du lịch cũng như tham khảo MRA-TP để công bố chương trình đào tạo ngành Du lịch hoàn thiện nhất. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực thông qua hợp tác đào tạo, nghiên cứu học tập trao đổi kinh nghiệm và phối hợp hiệu quả với các dự án đào tạo của nước ngoài, các tổ chức quốc tế như WWF, IUCN, JICA… về đào tạo du lịch. Cùng với đó cần thành lập các câu lạc bộ HDVDL trong cơ sở giáo dục đại học để tạo cơ hội cho sinh viên, hướng dẫn viên có thể tham gia trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau nhằm nâng cao sự hiểu biết kiến thức và kỹ năng của ngành nghề.

Thứ hai, mở mã ngành Hướng dẫn du lịch cho các cơ sở giáo dục đại học đào tạo ngành Du lịch để sinh viên chương trình đào tạo đại học có cơ hội được đào tạo chuyên ngành Hướng dẫn du lịch, xây dựng chương trình đào tạo du lịch sinh thái để có nguồn nhân lực phục vụ mảng dịch vụ du lịch tự nhiên. Đề xuất chương trình đào tạo chứng chỉ nghiệp vụ chuyên về hướng dẫn du lịch sinh thái, cụ thể:

Mục tiêu đào tạo: Trang bị cho học viên khối kiến thức cơ bản về địa lý, sinh thái, lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội; rèn luyện các kỹ năng hướng dẫn du lịch sinh thái cho học viên tác nghiệp tại các khu bảo tồn, rừng quốc gia, khu du lịch sinh thái, các chương trình du lịch sinh thái, du lịch hướng về thiên nhiên trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam; trang bị cho học viên những kiến thức, nghiệp vụ cơ bản và chuyên biệt về du lịch, du lịch sinh thái; bổ sung điều kiện về chứng chỉ cho học viên để được cấp thẻ hành nghề hướng dẫn du lịch; đáp ứng các quy định về công tác HDVDLvới loại hình du lịch sinh thái.

Đối tượng đào tạo: Người có bằng cao đẳng, cử nhân các ngành Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành, ngành Việt Nam học, ngành Quản trị du lịch và Khách sạn - Nhà hàng, ngành Văn hóa du lịch không phải là chuyên ngành Hướng dẫn du lịch; người đang cần bổ sung điều kiện để được cấp thẻ hướng dẫn du lịch theo quy định của Thông tư 06/2017-TT-BVHTTDL ngày 15-12-2017 Quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch; người học đã đáp ứng được điều kiện trên, nhưng bắt buộc phải có chứng chỉ hướng dẫn du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn, khu du lịch sinh thái theo quy định của các cơ quan quản lý và các đơn vị kinh doanh loại hình du lịch sinh thái.

Văn bằng được cấp: Chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch chuyên về du lịch sinh thái.

Chương trình đào tạo: Khối lượng kiến thức và thời gian đào tạo: 135 tiết (45 tiết kiến thức cơ sở; 90 tiết kiến thức ngành và nghiệp vụ), thực tập cuối khóa: 86 tiết (tương đương 2 tuần).

Cấu trúc chương trình: Kiến thức cơ sở: địa lý Việt Nam và tình hình kinh tế xã hội Việt Nam, lịch sử và văn hóa Việt Nam, hệ thống chính trị và các văn bản pháp luật liên quan đến du lịch; Kiến thức ngành và nghiệp vụ: du lịch sinh thái, tuyến điểm du lịch sinh thái Việt Nam, nghiệp vụ hướng dẫn du lịch sinh thái, thực hành hướng dẫn du lịch sinh thái; Thực tập cuối khóa: thực tập hướng dẫn du lịch sinh thái tại một điểm du lịch sinh thái cụ thể.

Thứ ba, các bên liên quan cần chung tay cùng với các trường trong việc đào tạo nguồn nhân lực như tham gia xây dựng chương trình đào tạo ngay từ đầu và có trách nhiệm, đặt hàng cho các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cụ thể cho đơn vị mình, cung cấp tài nguyên cho các trường tạo điều kiện đào tạo có chất lượng theo yêu cầu. Xây dựng chương trình bồi dưỡng kiến thức liên thông bậc trung cấp, cao đẳng lên đại học theo hướng tinh gọn, linh hoạt (kết hợp giảng dạy trực tuyến và trực tiếp), lược bỏ các nội dung đã giảng dạy, trùng lặp ở bậc học dưới trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng để hoàn chỉnh kiến thức đáp ứng chuẩn đầu ra trình độ cao đẳng trở lên đối với đội ngũ hướng dẫn viên nội địa hiện nay, nhằm vừa sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu ngoại ngữ, vừa đảm bảo chất lượng đào tạo chuyên môn, phù hợp với quy định của Luật Du lịch.

Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc ban hành văn bản điều chỉnh hoạt động trong lĩnh vực du lịch; cần xây dựng văn bản có thời gian áp dụng tương đối ổn định, quá trình áp dụng chế tài trong xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm của HDVDL cần kịp thời, nghiêm minh, có tác dụng răn đe trong việc yêu cầu chấp hành nghiêm các quy định pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực du lịch nói chung và nghề HDVDL nói riêng.

Thứ tư, các cơ sở đào tạo cần kết nối với các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp trong việc đào tạo các chương trình dài hạn, có bằng cấp cũng như các chương trình ngắn hạn thực hiện nhiệm vụ cụ thể của đơn vị. Bên cạnh việc các cơ sở đào tạo xây dựng chương trình mang tính liên ngành, cần có sự liên kết, có sự góp sức từ đầu đến cuối và có trách nhiệm của các bên có liên quan cả về chính sách, kinh nghiệm lẫn cơ sở vật chất.

Kết luận

Cùng với sự nỗ lực của Nhà nước nhằm đẩy mạnh các hoạt động du lịch với mục tiêu hàng đầu là bảo tồn, gắn kết cộng đồng và phát triển bền vững du lịch. việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch nói chung, đào tạo HDVDL nói riêng đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh hội nhập quốc tế vừa có tính cấp bách, vừa mang ý nghĩa chiến lược. Tuy nhiên, để có một chương trình đào tạo HDVDL đảm bảo chất lượng cần phải có mô hình định hướng đào tạo lý thuyết gắn liền tính đặc thù, chú trọng phát triển kỹ năng và thực hành đặt trong chiến lược phát triển dài hạn. Sự phối kết hợp giữa Nhà nước, nhà trường và nhà quản lý trong quá trình tiến hành đào tạo nguồn nhân lực du lịch nhằm khắc phục những khiếm khuyết, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho việc cung cấp nguồn nhân lực có kỹ năng nghiệp vụ, phục vụ cho sự phát triển bền vững ngành Du lịch, để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn theo đúng tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW.

_______________________

1. Nguyễn Tấn Trung, Từ kinh nghiệm đào tạo hướng dẫn du lịch sinh thái của Nhật Bản - xây dựng chương trình kế hoạch đào tạo nghiệp vụ du lịch sinh thái tại khoa du lịch, Tạp chí Khoa học Đại học Văn Hiến, số 7, 2015.

2. Bộ VHTTDL, Thông tư 06/2017-TT-BVHTTDL, ngày 15-12-2017 Quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch, điều 14.

Tài liệu tham khảo

1. Quốc hội, Luật Du lịch, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017.

2. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 147/QĐ-TTg ngày 22-1-2020 của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030.

3. Bộ VHTTDL, Chiến lược phát triển nhân lực văn hóa, thể thao và du lịch 2011 - 2020.

4. Bộ VHTTDL, Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Du lịch giai đoạn 2011 - 2020.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 09/2022/TTBGDĐT ngày 6-6-2022 Quy định Danh mục thống kê ngành đào tạo của giáo dục đại học.

6. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Thông tư số 2626/2020/TT-BLĐTBXH ngày 30-12-2020 Ban hành danh mục ngành, nghề đào tạo cấp IV trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.

7. Nguyễn Văn Cần, Nâng cao chất lượng đào tạo hướng dẫn viên du lịch tại Khoa Du lịch và Việt Nam học, Kỷ yếu Hội thảo toàn quốc về đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, Nha Trang, 2016.

8. Chương trình đào tạo ngắn hạn nghiệp vụ hướng dẫn du lịch, Trường Đại học Văn Hiến, 2009.

9. Phạm Trung Lương, Du lịch sinh thái những vấn đề về lý luận và thực tiễn phát triển ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.

10. Đỗ Thanh Hương, Mai Hà Phương, Giáo trình Luật Du lịch, 2021.

TS ĐỖ THANH HƯƠNG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 587, tháng 11-2024

;