Ánh sáng, tư tưởng, đạo đức, phong cách và lan tỏa khát vọng Hồ Chí Minh

Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không chỉ là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn có giá trị bền vững, lâu dài đối với sự nghiệp đổi mới, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Tranh “Nghe lời Bác dạy” của họa sĩ Vương Trình

 

Trong quan điểm chỉ đạo thực hiện đường lối đổi mới giai đoạn tới, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(1), đồng thời chỉ rõ: “Động lực và nguồn động lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” (2).

Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người đã nuôi dưỡng và truyền cảm hứng về khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh và hạnh phúc. Khi cách mạng vừa thành công, đất nước trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Người đã nêu khát vọng đưa dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quang”, “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Đó chính là nỗi niềm chung, mong muốn của cả dân tộc, cái đích toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phấn đấu đạt tới. Để thực hiện mong muốn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm đề ra các biện pháp giải quyết các nhiệm vụ cấp bách như đẩy lùi nạn đói, nạn mù chữ, xây dựng hiến pháp dân chủ, bảo đảm tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính trong đội ngũ cán bộ, đảng viên… Người không chỉ nêu mong muốn, khát vọng mãnh liệt “…làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” mà còn từng bước thể hiện trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mới - Nhà nước của dân, do dân, vì dân: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Chính sách kinh tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là không ngừng phát triển sản xuất để nâng cao mãi đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”.(Chương I, Điều 2, Hiến Pháp Việt Nam 1959, NXB CTQG trang 28).

Từ khát vọng đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người dân trong xã hội, sau khi nước nhà giành lại nền độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định phải đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi theo quan điểm của Người, “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”; “là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do”... Xây dựng chủ nghĩa xã hội “là một sự nghiệp vĩ đại nhất trong lịch sử loài người” nhưng đây cũng là “cuộc chiến đấu khổng lồ”. Cho nên Người chỉ dẫn Đảng phải huy động sức mạnh của toàn dân, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải luôn quan tâm và có kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng vạch ra con đường, biện pháp để xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, phồn vinh hạnh phúc. Trong bản Di chúc thiêng liêng, Người đã trăn trở, suy nghĩ về kế hoạch xây dựng lại thành phố và làng mạc bị chiến tranh tàn phá; khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế, sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân; trồng cây thành rừng tốt cho phong cảnh, lợi cho nông nghiệp… Người mong muốn toàn Đảng, toàn dân toàn quân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng đất nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

Sau chặng đường 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 (bổ sung phát triển năm 2011) và 35 năm đổi mới: “Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử”, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững đất nước. Ý chí và khát vọng về một dân tộc Việt Nam hùng cường của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng, từng bước đưa dân tộc Việt Nam tiến cùng nhịp bước với trào lưu tiến bộ trên thế giới và ý nguyện hòa bình, phát triển của nhân loại.

Đại hội XIII của Đảng là sự kiện  chính trị có ý nghĩa lịch sử đặc biệt, là dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Đảng ta. Tại Đại hội XIII, lần đầu tiên trong chủ đề của Đại hội và trong các văn kiện chính trị đề cập đến “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh yếu tố "hạnh phúc" của nhân dân. Đây là một điểm mới, đồng thời là điểm nhấn quan trọng. Khát vọng thịnh vượng đã được khơi dậy, truyền cảm hứng và như một lời hiệu triệu với non sông, đất nước, với gần một trăm triệu người dân Việt Nam mà ở đó, mục tiêu rõ nhất là làm cho người dân được hạnh phúc dưới ánh sáng tư tưởng, đạo đức, phong cách và khát vọng Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp nhất của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Thiết thực kỷ niệm 132 năm Ngày sinh của Người, toàn Đảng, toàn dân ta kính dâng lên Người triệu triệu đóa hoa tươi thắm, nguyện suốt đời học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, có khát vọng vươn lên, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ các cấp, nhiệm kỳ 2020-2025.

_______________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr. 136, 137.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr. 103 – 104.

NGUYỄN VĂN THANH

Nguồn: Tạp chí VHNT số 498, tháng 5-2022

;