Ra đời và phát triển trong cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại chống Pháp và chống Mỹ, văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 nói chung và văn xuôi nói riêng là bài ca về chủ nghĩa anh hùng cách mạng với cảm hứng sử thi bát ngát. Văn xuôi viết về đề tài chiến tranh trong mười năm (1975-1985) đã mở ra một lối đi mới - đó là cuộc chuyển mình ngoạn mục của văn xuôi để vượt lên quy luật của sử thi. Với cái nhìn đa chiều về hiện thực chiến tranh, văn xuôi giai đoạn này đã xuất hiện những dấu hiệu rạn nứt của cảm hứng sử thi ở cả nội dung và hình thức.
1. Rạn nứt trong quan niệm về hiện thực và con người
Rạn nứt trong quan niệm về hiện thực chiến tranh
Hiện thực chiến tranh trước 1975 là hiện thực lý tưởng, hiện thực của những biến cố, sự kiện. Sau 1975, hiện thực chiến tranh đã được tái hiện chân thật, gần gũi hơn, đó là hiện thực tồn tại như nó đang có, là hiện thực của số phận con người. Sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực của văn xuôi hậu chiến thể hiện rõ nhất trong cách xây dựng không gian. Vẫn là không gian chiến trường hoành tráng với đầy đủ những tri thức về chiến tranh: các loại binh chủng, tổ chức quân đội, vũ khí, kinh nghiệm, tinh thần chiến đấu của hai phía… nhưng ngay trong không gian ấy đã có những điểm khác biệt so với văn xuôi sử thi.
Văn xuôi hậu chiến viết về chiến tranh vẫn có những khoảng không gian lãng mạn của sử thi với những “đoàn thanh niên xung phong cười nói râm ran, những em học sinh đội mũ rơm mang lá ngụy trang, những đêm mắc võng trên bãi khách,...” (1), là không khí ra trận hào sảng và niềm tin tưởng tuyệt đối vào chiến thắng (2), là biển khơi lồng lộng với lời thề thiêng liêng, quả cảm của những chiến sĩ hải quân kiêu hãnh và anh hùng (3). Chất sử thi và cảm hứng lãng mạn còn thể hiện ở những không gian thiên nhiên tươi đẹp, giàu chất thơ: “Rồi họ đi qua những trảng cỏ, những ta man như đồng bào Tây Nguyên vẫn gọi... Mặt đất khát khao như những đôi môi khô cháy, nghẹn ngào đón những giọt mưa đầu” (4). Bằng so sánh liên tưởng thú vị, độc đáo và những hình ảnh giàu sức gợi, Khuất Quang Thụy đã vẽ trước mắt người đọc một trảng cỏ bao la, xanh rờn, mướt mát. Ta man ấy giàu sức sống không phải chỉ bởi vẻ đẹp của thiên nhiên mà quan trọng hơn, bởi sự tha thiết của con người, sự gắn bó máu thịt của người lính với Tây Nguyên.
Với chiêm nghiệm của những người từng trải, các nhà văn hậu chiến viết về không gian chiến tranh không chỉ bằng cái nhìn sử thi mà còn bằng con mắt hiện thực. Bên cạnh những không gian lý tưởng, không gian thiên nhiên lãng mạn, đã có không gian hiện thực trần trụi, không gian xã hội hậu chiến, không gian thể hiện tính cách con người. Đó chính là sự khác biệt rõ nét trong chất sử thi của văn xuôi thời hậu chiến.
Không ít những trang viết mô tả không gian hiện thực khủng khiếp của chiến tranh để tố cáo tội ác của kẻ thù, để tố khổ cho vô vàn thảm cảnh con người phải chịu đựng trong chiến tranh. Khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam, ở đâu có máy bay của kẻ thù, ở đó có những trận bom hủy diệt, tàn phá khủng khiếp: “Lửa vẫn đang cháy. Cả những cây mít cổ thụ…cũng cháy ngùn ngụt như bó đuốc... Rừng dương liễu mất đi từng mảng lớn, đất đỏ hóa đen kịt,...” (5). Rất nhiều mảnh đất đã trở thành vùng đất lửa (Ký sự miền đất lửa), nhiều nơi địch muốn biến thành vùng đất chết (Miền cháy). Viết về con đường huyền thoại, đường Hồ Chí Minh trên biển, với đoàn tàu không số, Biển gọi đã tái hiện một không gian dữ dội của biển thẳm với cuồng phong, sóng ngầm sôi sục, cơn bão đột ngột, cuộc chiến gay go, ác liệt - đó không còn là không gian đại dương bao la, xanh thẳm hiền hòa mà là biển khơi đầy giông tố, nguy hiểm, sẵn sàng nhấn chìm và nuốt chửng con người... Những chặng đường hành quân gian khổ, khắc nghiệt của núi rừng, thời tiết, kham khổ về thuốc men, lương thực và bệnh tật, bom đạn chiến tranh… thực sự là những hiểm họa rình rập người lính. Nỗi đày đọa, thiếu thốn về vật chất trong sự khắc nghiệt của chiến tranh là thử thách triền miên mà người lính phải vượt qua… Sự kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn trong văn xuôi 1975-1985 đã tạo ra nét khác biệt trong cảm hứng sử thi của văn xuôi giai đoạn này và trở thành điểm xuất phát cho văn xuôi giai đoạn sau. Nhiều không gian đẫm máu và nước mắt khác được kể trong văn xuôi viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới: một hiện thực rách nát, nhàu nhĩ, bi thảm (Nỗi buồn chiến tranh, Ăn mày dĩ vãng...).
Văn xuôi hậu chiến vẫn vang vọng âm hưởng sử thi khá rõ nhưng đã gần hơn với hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Sự hòa quyện giữa yếu tố lãng mạn và hiện thực trong văn xuôi hậu chiến viết về đề tài chiến tranh đã khởi đầu cho những thay đổi trong quan niệm về hiện thực trong văn xuôi thời kỳ đổi mới: từ hiện thực của các biến cố, sự kiện đến hiện thực của số phận con người, từ hiện thực đơn giản, một chiều đến hiện thực phức tạp, đa chiều…
Rạn nứt trong quan niệm về con người
Văn học Việt Nam 1945-1975 phát triển trong điều kiện chiến tranh, chịu những tác động có tính quy luật lên đời sống văn học. Do đó, lợi ích cộng đồng trở thành nguyên tắc hàng đầu. Tuân theo quy luật ấy, nhân vật văn học là những con người mới - những sản phẩm hoàn hảo của cách mạng. Văn xuôi 1975-1985 đã nhìn thấy bên cạnh con người cộng đồng lý tưởng còn có con người cá nhân sinh động, phức tạp. Sự hòa quyện giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng và cá nhân trong con người đã thể hiện những thay đổi đầu tiên trong quan niệm nghệ thuật về con người của văn xuôi thời kỳ này.
Nhân vật của Đất trắng, Miền cháy, Nắng đồng bằng, Năm 1975 họ đã sống như thế, Trong cơn gió lốc… vừa là con người cộng đồng với suy nghĩ, hành động theo lý tưởng, vừa là con người cá nhân phức tạp, nhiều chiều không trùng khít với chính mình. Hình ảnh con người trong văn xuôi hậu chiến vẫn là những con người đại diện cho vẻ đẹp thời đại, kết tinh tinh hoa, khí phách cộng đồng với những phẩm chất đẹp đẽ. Tuy nhiên, trong văn xuôi 1975-1985, bên cạnh việc khai thác con người công dân đã có những khai thác con người cá nhân, với những nỗi niềm riêng. Đó là bi kịch trong đời riêng của người lính, là số phận, cảnh đời đôi khi hết sức trớ trêu và cảnh huống, thử thách tưởng chừng như không thể vượt qua được, là suy tư, trăn trở khi bước vào cuộc chiến, thậm chí cả do dự, tính toán, sợ hãi... Tất cả được mô tả rõ nét, làm nổi bật hình ảnh con người trong chiến tranh, đó là con người toàn diện, con người thật chứ không phải là con người như trong văn học ba mươi năm chiến tranh.
Đọc văn xuôi hậu chiến, người đọc bị ám ảnh bởi nhiều số phận cá nhân. Mỗi người một hoàn cảnh, họ đều cố gắng nén nỗi đau riêng để đến được lý tưởng chung. Nhưng hành trình tâm lý của họ từ nỗi đau cá nhân đến sự hy sinh cái riêng vì cái chung được diễn tả tự nhiên, chân thật hơn so với cái nhìn lý tưởng hóa nhân vật trong văn xuôi cách mạng.
Khoảng lặng sau chiến tranh đã giúp nhà văn nhìn sâu hơn vào những hy sinh, mất mát để khám phá tâm lý con người. Đây là điểm khác biệt khá lớn so với văn xuôi trước 1975. Trong nền văn học sử thi, con người nói tiếng nói của cộng đồng, suy nghĩ của họ là suy nghĩ của dân tộc, của lý tưởng và khát vọng xả thân, dâng hiến... Trong không khí hừng hực chiến đấu với kẻ thù, những suy nghĩ yếu đuối, bi quan, những hoang mang, dao động... không được phép xuất hiện. Trong con người khi đó chỉ có chiến đấu và chiến thắng, đó là tư tưởng chi phối suy nghĩ và hành động... Văn xuôi thời kỳ hậu chiến với những thay đổi về quan niệm, đã nhìn thẳng vào người lính như một cấu trúc nhân cách để khám phá bản chất sinh động, chân thực của nó.
Cảm hứng về sự thật trong văn xuôi hậu chiến thể hiện ở những phản ánh trung thực, dũng cảm về diễn biến tâm lý của cán bộ, chiến sĩ ta trước thử thách khắc nghiệt của chiến tranh, ở đó không phải chỉ có sự kiên cường, quả cảm, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh mà còn có cả sự sợ hãi, lo lắng, hèn nhát thậm chí cả phản bội đê hèn… Đó là sự hoang mang, dao động của Lựu, sự chiêu hồi của phó chính ủy phân khu Tám Hàn (Đất trắng), là những toan tính, những mưu lợi cá nhân (Kiêu - Nắng đồng bằng, Hậu, Biên - Đất miền Đông, trung tá Lệnh, thuyền trưởng Khôi - Biển gọi, Trí - Hai người trở lại trung đoàn)…
Trong văn xuôi 1945-1975, cấu trúc tác phẩm thường triển khai theo mô hình xung đột giai cấp, địch ta rõ ràng; tính cách, cá tính của mỗi loại nhân vật đều bị quy định bởi bản chất giai cấp. Bởi vậy, ta tốt - địch xấu, ta thắng - địch thua, ta anh hùng - địch hèn nhát... là những lập trường cố hữu. Văn xuôi mười năm sau chiến tranh đã đi ngược lại với tư duy ấy. Với cảm hứng về sự thật, văn xuôi hậu chiến đã khắc phục cái nhìn phiến diện, một chiều, giản đơn về hiện thực và con người trong văn xuôi trước 1975, góp phần đưa văn học gần hơn với công cuộc đổi mới.
2. Rạn nứt trong điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu
Điểm nhìn trần thuật phá vỡ khoảng cách sử thi
Điểm nhìn trần thuật là vị trí người trần thuật quan sát, cảm nhận và đánh giá đối tượng. Có thể phân loại điểm nhìn qua các bình diện vật lý, tâm lý (điểm nhìn không gian- thời gian, điểm nhìn bên trong - bên ngoài, điểm nhìn khách quan - chủ quan), qua trường nhìn (của tác giả hay của nhân vật), qua ngôi kể (ngôi thứ nhất, ngôi thứ ba)… Trong văn xuôi hậu chiến, những vận động đổi mới của điểm nhìn trần thuật được thể hiện trên bình diện tâm lý, từ điểm nhìn bên ngoài tới bên trong đối với kiểu trần thuật theo ngôi thứ ba ẩn mình - kiểu trần thuật phổ biến trong văn học.
Văn xuôi 1945-1975 được trần thuật với quan điểm sử thi nên giữa chủ thể trần thuật và nhân vật luôn có một khoảng cách được xác lập bởi điểm nhìn bên ngoài và cái nhìn tôn kính sử thi. Kiểu trần thuật này chủ yếu mang cái nhìn, giọng điệu, quan điểm của tác giả. Tác giả xuất phát từ quan điểm sử thi, từ lợi ích cộng đồng để quan sát, miêu tả, kể chuyện. Do đó, nhân vật trở thành khách thể để soi ngắm, trở thành những mô hình lý tưởng, đại diện cho cộng đồng. Tầm vóc phi thường của các nhân vật chị Út Tịch (Người mẹ cầm súng), Tnú (Rừng xà nu), Kinh, Lữ (Dấu chân người lính)… đều được quan sát, miêu tả bằng cái nhìn kính cẩn, kính nhi viễn chi của người kể chuyện toàn tri. Đối tượng quan sát chủ yếu của người trần thuật là các biến cố, sự kiện và những hành động hướng ngoại của nhân vật. Khoảng cách sử thi và điểm nhìn bên ngoài khiến nhà văn đứng ngoài cõi riêng thầm kín của nhân vật. Một số tác phẩm cố gắng diễn tả nội tâm nhân vật nhưng thực chất, những độc thoại nội tâm trong quá trình quan sát từ điểm nhìn bên ngoài vẫn duy trì một khoảng cách. Bởi những suy tư của nhân vật đều là kết quả quan sát theo lập trường độc thoại của người kể chuyện toàn tri. Những diễn biến nội tâm của nhân vật nhạt màu sắc cá nhân mà mang dáng dấp của tư tưởng cộng đồng.
Văn xuôi hậu chiến viết về đề tài chiến tranh vẫn giữ kiểu trần thuật từ ngôi thứ ba với người kể chuyện toàn tri nhưng đã có những cố gắng để rút gần, thậm chí phá vỡ khoảng cách ấy bằng việc hướng đến diễn biến tâm lý bên trong của nhân vật, hoặc sự trần thuật mang tính cá nhân từ điểm nhìn bên trong. Đó cũng là một trong những phẩm chất mới của văn xuôi hậu chiến. Những tác phẩm như Miền cháy, Năm 1975, họ đã sống như thế, Đất trắng, Ký sự miền đất lửa… ngoài việc tái hiện hành động hướng ngoại của nhân vật, những dòng sự kiện bề bộn… tác giả đã quan tâm hơn đến những biến đổi tâm lý trong nội tâm nhân vật. Khoảng cách giữa người trần thuật, tác giả và nhân vật đã được rút ngắn khi người trần thuật không còn đứng ở xa. Những trang viết về sự dằn vặt của Mạc, nỗi đau đớn của Thư, Phác, tâm tư của Thức, Nhã… (Năm 1975, họ đã sống như thế), bi kịch của bà mẹ Êm, băn khoăn, trăn trở trong tâm hồn Cúc, Hiển, Thu Lan… (Miền cháy)… đã ít nhiều mang tính cá nhân, rút ngắn khoảng cách giữa tác giả và nhân vật.
Sự dịch chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật đã khiến khách thể quan sát được miêu tả đầy đặn, đa chiều và chân thực hơn. Nhân vật không còn là cái loa phát ngôn của cộng đồng mà là một cấu trúc nhân cách sinh động, cá tính. Với điểm nhìn bên trong, “khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật trên thực tế bị thủ tiêu, điểm nhìn của cả hai hòa nhập làm một…” (6), Chim én bay là một tiểu thuyết thành công với kỹ thuật dòng ý thức. Dịch chuyển điểm nhìn vào bên trong nội tâm nhân vật Quy, tác giả đã nhìn sâu tận đáy tâm hồn nhân vật những khát vọng, đau đớn, day dứt, khắc khoải… Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu lại là một hành trình dài, ngược trở lại ký ức với những dằn vặt, khắc khoải, đau đớn của nhân vật Quỳ. Lời nửa trực tiếp đã tạo nên những phức hợp đa giọng điệu: giọng tác giả, giọng nhân vật...
Khác với văn xuôi sử thi, ở văn xuôi hậu chiến đã xuất hiện sự đan xen, kết hợp nhiều điểm nhìn với sự dịch chuyển điểm nhìn vào bên trong nhiều nhân vật. Lối trần thuật này khiến đối tượng được hiện lên đa chiều, đa diện và chân thật (đối thoại trong lời người kể chuyện ở Năm 1975, họ đã sống như thế, sự luân phiên điểm nhìn ở Trong cơn gió lốc...)
Những vận động ban đầu về điểm nhìn trần thuật đã giúp văn xuôi hậu chiến xóa bỏ khoảng cách sử thi tôn kính giữa tác giả và nhân vật, giữa tác giả và người đọc. Đó là tiền đề tạo nên tính dân chủ, tính đối thoại trong văn xuôi từ đầu thập kỷ 80 TK XX trở về sau. Những đổi mới trong điểm nhìn, những nới lỏng trong kết cấu đã tạo điều kiện cho người đọc tham gia vào tác phẩm, đối thoại với tác giả... Sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật đã tạo nên cho văn xuôi hậu chiến một phong cách mới, khác với văn xuôi trước 1975.
Ngôn ngữ suồng sã, đời thường phá vỡ tính trang trọng của sử thi
Văn xuôi 1945-1975 thường mang sắc thái cao cả của sử thi với ngôn từ hào hùng, thi vị và lãng mạn. Trong văn xuôi hậu chiến, ngôn ngữ đã bộc lộ rõ hơn suy nghĩ, quan niệm cá nhân, đã chạm đến vấn đề con người đa diện, phức tạp; từ ngôn ngữ hào hùng tráng lệ đã chuyển sang ngôn ngữ suồng sã, đời thường.
Sau 1975, từ rất sớm, lối nói thông tục với ngôn từ mang tính khẩu ngữ trong văn xuôi đã mang đến cho người đọc một ngôn ngữ mới lạ, khác với ngôn ngữ diễm lệ, hùng tráng trước đó. Đó là lối nói suồng sã, tếu táo, thân mật đậm chất lính.
Khác với ngôn ngữ tráng lệ, thi vị trong Sống mãi với thủ đô, ngôn ngữ lãng mạn, hào hùng trong Dấu chân người lính, cổ kính, trang nghiêm, huyền thoại trong Rừng xà nu, văn xuôi hậu chiến đã sử dụng ngôn ngữ đậm chất hiện thực đời thường, không làm mất đi vẻ đẹp cao cả của người lính mà đưa vẻ đẹp của họ bình dị hơn, gần gũi hơn. Ngôn ngữ ấy chứng minh: họ là những con người bình thường mà phi thường chứ không phải là thánh nhân.
Ngôn ngữ suồng sã đậm chất hiện thực đời thường trong văn xuôi hậu chiến còn được thể hiện ở lối nói giản dị, chân thật, bày tỏ cảm xúc một cách tự nhiên của nhân vật (lối nói thoải mái, thẳng thắn của trung đoàn trưởng Ba Kiên trong Đất trắng, của Mánh trong Trong cơn gió lốc…). Họ dám thể hiện suy nghĩ của mình, những tâm lý có thật trong những hoàn cảnh nhất định nhưng điều quan trọng hơn, họ dám xông pha trên chiến trường, chiến đấu anh dũng và sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng. Điều đó đáng quý biết bao so với những kẻ đớn hèn, luôn giấu giếm những toan tính, dục vọng để rồi trở thành kẻ chiêu hồi, phản bội. Với ngôn ngữ suồng sã, đời thường, văn xuôi hậu chiến đã thể hiện vẻ đẹp bình thường, giản dị của người lính, góp phần xóa bỏ tính trang trọng trong phong cách sử thi, đưa hình tượng văn học gần gũi hơn với cuộc sống, với độc giả.
Giọng điệu đa sắc thái phá vỡ tính đơn giọng của sử thi
Quan niệm sử thi đòi hỏi các nhà văn thời kỳ 1945-1975 nói theo cách nói của dân tộc, phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp và sức mạnh vĩ đại của dân tộc trong cuộc chiến chống kẻ thù. Sáng tác theo tư tưởng cộng đồng, văn xuôi 1945 - 1975 mang tính đơn giọng, độc thoại. Các cung bậc, sắc thái trong giọng điệu đều thống nhất trong giọng hào hùng, sảng khoái, ngợi ca, tin tưởng.
Sau 1975, đề tài chiến tranh được viết bằng cái nhìn mới, cảm hứng mới. Cùng với những thay đổi trong quan niệm về hiện thực và con người, tính đơn giọng của sử thi cũng bị phá vỡ. Văn xuôi hậu chiến đã xuất hiện những sắc thái giọng điệu mới: có ngợi ca, châm biếm, hào sảng, có bi thương, xót xa, day dứt, tự vấn, có suy ngẫm, triết lý... Văn xuôi hậu chiến vẫn mang giọng ngợi ca, khẳng định - giọng chủ của văn học sử thi - khi nhà văn viết về chiến dịch, người lính, lý tưởng, mơ ước của họ, nhưng bên cạnh đó, ý thức về nỗi bất hạnh của thân phận con người, mặt trái của chiến tranh, sự vô nghĩa của cuộc chiến đã khiến văn xuôi hậu chiến xuất hiện giọng xót xa, trăn trở (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chim én bay, Biển gọi…), giọng băn khoăn trước thực tại (Năm 1975, họ đã sống như thế, Miền cháy, Trong cơn gió lốc), giọng triết lý suy ngẫm… (Miền cháy, Đất miền Đông…)…
Quan tâm đến số phận con người, viết nhiều về những thân phận trong và sau chiến tranh, văn xuôi hậu chiến nổi bật giọng xót xa, trăn trở, phản ánh những suy tư trong nội tâm nhân vật, được thể hiện bằng điểm nhìn bên trong với những câu cảm thán, những từ chỉ cảm xúc… Giọng điệu xót xa, trăn trở được thể hiện trong Chim én bay khi nhà văn miêu tả cuộc sống nội tâm không hề bình lặng, một đời sống riêng tư đầy sóng gió của nhân vật Quy. Chiến tranh với tất cả những mất mát, đau đớn, dày vò… đã trở thành một quá khứ tàn khốc, bi thảm để đến hơn mười năm sau, ở cái tuổi thanh xuân đẹp nhất của đời người, chị phải hứng chịu những hậu quả nặng nề của nó. ám ảnh chiến tranh khiến chị đau đớn nhưng có lẽ những khát vọng hạnh phúc bình thường của một người vợ, người mẹ còn khiến chị đau đớn hơn gấp bội. Nhà văn đã miêu tả những cảm giác, khát vọng thật bình dị, đơn sơ mà sao khó khăn và đau đớn đến tột cùng với Quy… Dường như, với mẫn cảm giới tính, những người phụ nữ bao giờ cũng nhạy cảm, suy nghĩ nhiều hơn. Những giằng xé, day dứt trong tâm tư của họ diễn ra nhiều chiều, nhiều phía hơn. Điều đó lý giải vì sao trong văn xuôi thời kỳ hậu chiến, giọng điệu xót xa, trăn trở, day dứt thường gắn với tâm tư, tình cảm của những nhân vật nữ. Khác với bi kịch của Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), Quy (Chim én bay), bà mẹ Êm (Miền cháy) phải đối mặt với nỗi đau khác, với một sự lựa chọn nghiệt ngã: tiếp tục yêu thương nuôi dưỡng, chăm sóc thằng bé Sinh như một đứa trẻ bình thường hay căm ghét nó vì nó là con trai của kẻ sát nhân đã giết chết con trai của bà bằng loạt đạn bắn lén? Hoàn cảnh éo le, bi kịch của bà mẹ Êm, nỗi đau mà bà phải gánh chịu đòi hỏi một tấm lòng bao dung cao cả, một nghị lực phi thường để vượt qua hận thù…
Chiến tranh là một trong những câu hỏi thường vang lên day dứt trong các tác phẩm văn xuôi sau 1975. Với cái nhìn thế sự, chiến tranh được nhận thức với sắc thái bi nhiều hơn tráng. Đi qua hai cuộc chiến, các nhà văn đều suy ngẫm về những vấn đề bức thiết liên quan đến nó. Trải qua những mất mát, khổ đau, con người cay đắng nhận ra sự thật về chiến tranh: “Nó như một nhát dao phạt ngang mà hai nửa cuộc đời... bị chặt lìa thật khó gắn liền lại như cũ” (Cỏ lau). Triết lý, suy ngẫm về chiến tranh thể hiện cái nhìn nghiêm túc của nhà văn về vấn đề số phận con người trong và sau cuộc chiến.
Viết về chiến tranh bằng cái nhìn của người ở phía bên kia chiến tuyến, văn xuôi hậu chiến còn thể hiện giọng băn khoăn, chán nản, hoài nghi. Đó là biểu hiện cho tâm lý hoang mang, dao động của những thế lực phi nghĩa (Năm 1975, họ đã sống như thế, Đất miền Đông, Trong cơn gió lốc, Miền cháy…). Những sắc thái giọng điệu phong phú trong văn xuôi viết về chiến tranh sau chiến tranh đã khiến văn xuôi hậu chiến không còn sự đơn giọng của sử thi. Giọng cao bao nhiêu năm đã bắt đầu chuyển thành những bè trầm hơn, thể hiện những sắc màu đa dạng của hiện thực cuộc sống.
Nếu văn xuôi viết về chiến tranh thời kỳ 1945 - 1975 mang đậm cảm hứng lãng mạn sử thi thì văn xuôi viết về chiến tranh thời kỳ hậu chiến là sự kết hợp giữa phong cách sử thi hoành tráng và hiện thực trần trụi, giữa lãng mạn bi tráng với thế sự đời thường, giữa cộng đồng và cá nhân... Những rạn nứt của cảm hứng sử thi đã mang lại cho văn xuôi 1975-1985 một diện mạo riêng biệt. Nhiều tác phẩm viết về chiến tranh ra đời sau đổi mới không còn âm hưởng sử thi mà thay vào đó là cảm hứng bi kịch sâu sắc với hiện thực trần trụi, bi thảm được nhấn mạnh, tô đậm. Nước mắt đỏ, Tiễn biệt những ngày buồn, Vòng tròn bội bạc, Nỗi buồn chiến tranh, Phố, Ăn mày dĩ vãng, Cỏ lau, 49 cây cơm nguội, Người sót lại của rừng cười... không còn là những trang viết hào sảng về cuộc kháng chiến của dân tộc mà là âm hưởng lặng lẽ, khắc khoải của nỗi buồn chiến tranh mênh mang... Như vậy, có thể thấy, đặc trưng của văn xuôi hậu chiến là sự chuyển biến, nối tiếp giữa hai giai đoạn văn xuôi viết về chiến tranh với những khuynh hướng và cảm hứng khác nhau. Điều đó chứng tỏ sự vận động của tư duy văn học trên con đường đổi mới.
_______________
1. Nguyễn Trọng Oánh, Đất trắng, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 2007.
2, 4. Khuất Quang Thụy, Trong cơn gió lốc, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1979.
3. Hồ Phương, Biển gọi, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1985.
5. Nguyễn Sinh - Vũ Kỳ Lân, Ký sự miền đất lửa, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1978.
6. G.N.Pôxpêlôp, Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 347, tháng 5-2013
Tác giả : Ngô Thu Thủy