Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đầu tiên trên thế giới do giai cấp công nhân lãnh đạo giành được thắng lợi, góp phần cùng Đồng minh Dân chủ quốc tế đánh bại chủ nghĩa phát xít, kết thúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, làm thay đổi cục diện, tạo tiền đề quan trọng để đưa thế giới bước sang thời kỳ phát triển mới. Cách mạng Tháng Tám là nguồn cổ vũ, động viên to lớn để nhiều nước thuộc địa đấu tranh đánh đuổi phát xít, đế quốc, thực dân, giành độc lập dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã để lại nhiều bài học lịch sử quý báu. Trong đó, không thể không kể đến bài học củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất do liên minh công, nông, trí thức làm nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bài học lịch sử vô giá này vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
1. Củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng - Bài học thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình chuẩn bị lâu dài về tinh thần và lực lượng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhận thấy vai trò to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, năm 1930, ngay từ Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã vạch ra sự cần thiết phải xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm đoàn kết các giai tầng trong xã hội, các tổ chức chính trị và mọi người dân, tạo sức mạnh to lớn để phấn đấu cho sự nghiệp chung giải phóng dân tộc. Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tháng 3-1935, Đại hội Đảng lần thứ 1 đã thông qua nghị quyết về công tác phản đế liên minh, quyết định thành lập và thông qua điều lệ của tổ chức nhằm tập hợp tất cả các lực lượng phản đế toàn Đông Dương. Điều lệ của Hội phản đế liên minh rộng và linh hoạt hơn Điều lệ Hội phản đế đồng minh. Bất kỳ người hoặc đoàn thể nào thừa nhận nghị quyết, Điều lệ và thường xuyên nộp hội phí thì được thừa nhận là hội viên. Năm 1936, 1938, 1939, khối đại đoàn kết dân tộc luôn được Đảng ta, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quan tâm củng cố và tăng cường thông qua nhiều tên gọi khác nhau, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể: Mặt trận thống nhất nhân dân Phản đế, Mặt trận Dân chủ Đông Dương, Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông dương.
Khi quân Nhật kéo vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và làm tay sai cho phát xít Nhật. Tại Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ tám, theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Nhật, thực dân Pháp với tên gọi Việt Nam Độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) đã ra đời ngày 19-5-1941 lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Việt Minh và làm cờ Tổ quốc khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6-6-1941, khởi đầu tiến trình chuẩn bị mọi mặt cho Tổng khởi nghĩa, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã viết thư Kính cáo đồng bào, kêu gọi: “Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết” (1). Người chỉ ra mục tiêu chung để tập hợp đông đảo quần chúng: “Một là ích nước, hai là lợi dân” (2). Nhờ vậy, Mặt trận Việt Minh thu hút được đông đảo đồng bào yêu nước, từ công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản đến tư sản dân tộc, phú nông và một số địa chủ nhỏ có tinh thần yêu nước, đưa tới cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật của toàn dân ta trong những năm 1941-1945.
Ngày 16, 17-8-1945, Đại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ở Tân Trào đã thông qua lệnh tổng khởi nghĩa, quyết định quốc kỳ, quốc ca, cử ra Ủy ban giải phóng dân tộc (Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Do tận dụng tốt tình thế, thời cơ cách mạng, trên cơ sở chuẩn bị chu đáo về tinh thần và lực lượng, cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám đã diễn ra rất mau lẹ, hầu như không đổ máu nhưng thắng lợi rất lớn. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đại biểu Tổng bộ Việt Minh Nguyễn Lương Bằng đọc lời hiệu triệu đồng bào cả nước. Mặt trận Việt Minh trở thành một trong những nhân tố cơ bản bảo đảm cho Cách mạng Tháng Tám thành công.
2. Vận dụng bài học của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay
Đại đoàn kết toàn dân tộc là quy luật giành thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong dựng nước và giữ nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một mốc son lịch sử minh chứng cho quy luật ấy. Thấm nhuần bài học này và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết, Đảng ta luôn xác định xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ chiến lược trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Từ năm 1986 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều nghị quyết nhằm tăng cường, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới. Đó là, Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng; Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung và phát triển năm 2011); Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW, ngày 27-3-1990 Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân; Nghị quyết 07-NQ/TW, ngày 17-11-1993 của Bộ Chính trị về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất; Nghị quyết 23-NQ/TW, ngày 12-3-2003 của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Kết luận số 62-KL/TW ngày 8-12-2009 của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị, xã hội.
Trên thực tế, trong nhiều năm qua, các cuộc vận động xã hội, các phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận Tổ quốc phát động và triển khai thực hiện đã ngày càng đi vào cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng. Đó là các hoạt động: Đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế; xóa đói, giảm nghèo; lá lành đùm lá rách; bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phòng, chống tội phạm; các phong trào “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ngày vì người nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”,… Đặc biệt, trong đại dịch COVID-19 vừa qua, cả nước đã huy động được sự đóng góp, ủng hộ rất lớn, cả về vật chất và tinh thần từ nhiều tầng lớp nhân dân để ứng phó hiệu quả với đại dịch, tạo tiếng vang trên trường quốc tế, được cả thế giới thừa nhận. Những hoạt động trên không chỉ có tác dụng thiết thực, tạo nên sự gắn kết cộng đồng mà còn góp phần làm tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, tạo động lực thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn tiến hành sự nghiệp đổi mới trong hơn 30 năm qua, đất nước ta đã đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” (3). Một trong những bài học kinh nghiệm từ sự thành công ấy là “đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm dân là gốc, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Trong Dự thảo Các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đưa ra quan điểm chỉ đạo định hướng phát triển cho đất nước trong những năm tới liên quan đến phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng phát triển và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam; bồi dưỡng sức dân; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước” (4). Theo đó, tư tưởng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta ngày càng rõ ràng, cụ thể hơn, phù hợp với tình hình thực tiễn trong từng giai đoạn, thời điểm.
Như vậy, bài học kinh nghiệm từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 về củng cố, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng vẫn còn giữ nguyên giá trị trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Cần nhận thức rõ đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là động lực, nguồn lực to lớn trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Đại đoàn kết toàn dân tộc luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức.
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới hiện nay cần tiến hành đồng thời nhiều giải pháp. Đó là: Tiếp tục giương cao ngọn cờ về tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng phát triển của nhân dân. Giải quyết hài hòa, đúng đắn quan hệ lợi ích để tập hợp các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới; gắn lợi ích và quyền lợi của các tầng lớp nhân dân với vận mệnh quốc gia và lợi ích dân tộc. Thực hành dân chủ rộng rãi, tôn trọng những điểm khác nhau của các tầng lớp nhân dân không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Chủ động đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc và những hành động kích động chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân.
Tài liệu tham khảo:
1, 2. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.230, 242.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.65.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Chi bộ, Đảng bộ cơ sở), Hà Nội, 2020, tr.11.
Tác giả: Phạm Công Thưởng
Nguồn: Tạp chí VHNT số 435, tháng 8-2020