Trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đầu tư nguồn lực để phát triển văn hóa. Các nguồn lực này đóng vai trò trọng yếu để tạo nên động lực thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa ở tất cả các lĩnh vực, thành tố và hoạt động văn hóa từ cấp trung ương đến cơ sở, từng bước phát huy được vai trò, sức mạnh của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhìn lại quá trình ban hành chính sách và tổ chức thực hiện chính sách trong thực tiễn giúp chúng ta rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích để hoàn thiện chính sách phát triển văn hóa trong thời gian tới.
Chương trình nghệ thuật tại Làng VH-DL các dân tộc Việt Nam - Ảnh: Nguyễn Thanh Hà
1. Nhận thức của Đảng và Nhà nước về nguồn lực phát triển văn hóa
Văn hóa cũng như bất kỳ lĩnh vực nào khác muốn phát triển cần có nguồn lực. Nguồn lực để phát triển văn hóa bao gồm nguồn lực nhà nước và nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nước và nguồn lực quốc tế, nguồn lực tài chính, nguồn lực đất đai, nguồn lực khu vực công nghệ tổ chức bộ máy, nguồn lực con người tham gia hoạt động văn hóa… Sau 12 năm bước vào sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong Nghị quyết này, Đảng ta đã xác định phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết này đã xác định một trong những giải pháp lớn là tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa. Nghị quyết nhấn mạnh: “Tăng cường đầu tư cho văn hóa từ nguồn chi thường xuyên và chi phát triển trong ngân sách của nhà nước. Tỷ trọng chi ngân sách cho văn hóa phải tương ứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Khuyến khích các địa phương tăng thêm nguồn đầu tư cho văn hóa. Tích cực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách của nhà nước cho phát triển văn hóa. Thực hiện các chương trình có mục tiêu về văn hóa nhằm đầu tư có trọng điểm, giải quyết các vấn đề có tính cấp bách... Củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy, cán bộ của các cơ quan lãnh đạo, quản lý, tham mưu, các đoàn thể, các tổ chức nghề nghiệp của hoạt động văn hóa từ Trung ương đến cơ sở, đảm bảo hoạt động có hiệu quả” (1).
Đối với nguồn lực con người tham gia vào hoạt động văn hóa, Nghị quyết nêu rõ: “Nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp. Sử dụng và bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ hiện có. Xây dựng quy hoạch và thực hiện chương trình đào tạo lớp cán bộ mới (cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, chuyên gia) đủ phẩm chất và năng lực đảm đương công việc trong những năm tới. Củng cố, kiện toàn hệ thống các khoa, trường đào tạo cán bộ văn hóa, nghệ thuật, thông tin, báo chí, các viện nghiên cứu cả về tổ chức, đội ngũ giảng viên, chương trình, giáo trình. Tăng thêm điều kiện về phương diện kỹ thuật giảng dạy, học tập. Tổ chức tốt đào tạo trên đại học. Xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ văn hóa” (2).
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (2014) đã ban hành Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, tiếp tục nhấn mạnh giải pháp tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa. Nghị quyết này nhấn mạnh: “Mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải tương đương với mức tăng trưởng kinh tế. Sử dụng công khai, minh bạch, hiệu quả nguồn đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy. Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con người” (3). Trong Nghị quyết này, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở những vùng còn khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản. Xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm. Các địa phương, cơ quan, công sở, trường học, khu công nghiệp, doanh nghiệp, khu dân cư… có thiết chế văn hóa phù hợp (thư viện, nhà văn hóa, công trình thể thao…). Tăng cường đầu tư để đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để nâng cao khả năng dự báo và định hướng phát triển văn hóa, xây dựng con người” (4).
Ngày 4-6-2020, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong Kết luận này, Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định: “Tăng cường các nguồn lực cho phát triển văn hóa, tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Ưu tiên đầu tư một số cơ sở đào tạo trọng điểm, chất lượng cao và một số ngành công nghiệp văn hóa chủ đạo, có khả năng dẫn dắt các hoạt động văn hóa. Coi trọng hơn nữa công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, những người làm công tác văn hóa, nghệ thuật”.
Trong bài phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (24-11-2021), Tổng Bí thư đã nhấn mạnh: “Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao” (5). Tổng Bí thư yêu cầu: “Nâng mức đầu tư một cách hợp lý từ nguồn ngân sách Nhà nước, đồng thời khơi thông các nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nước và nước ngoài cho phát triển văn hóa. Trong quá trình đa dạng hóa các hoạt động văn hóa, Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hóa cách mạng để làm nòng cốt và dẫn dắt, truyền cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm trong sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội” (6). Đồng thời, Tổng Bí thư đã nhấn mạnh: “Đổi mới chính sách đãi ngộ, sử dụng đối với đội ngũ văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa. Tôn vinh tài năng và cống hiến của họ cho sự phát triển văn hóa nước nhà. Bên cạnh việc tập trung nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở, cần phải chú trọng, xây dựng và phát triển văn hóa đỉnh cao, phấn đấu có nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn hóa, nghệ thuật, có những tác phẩm tầm cỡ, phản ánh được sâu sắc hiện thực đổi mới vĩ đại của đất nước, có ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam hiện nay” (7).
Trên cơ sở triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng về tăng cường nguồn lực cho hoạt động văn hóa, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đã chú trọng nâng cao mức đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát triển văn hóa. Quốc hội đã bố trí kinh phí đạt mức 1,8% tổng chi cho ngân sách nhà nước cho ngành Văn hóa theo Kết luận Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (2004). Nguồn ngân sách văn hóa nhà nước giao về cho các địa phương cũng được quan tâm (Qua báo cáo của 53/63 tỉnh, thành phố đã đạt mức 1,72% tổng chi ngân sách của địa phương). Chính phủ đã ban hành một số văn bản tạo cơ sở pháp lý phân cấp, phân quyền để đầu tư nguồn lực cho văn hóa (8).
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 936/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2016-2020 tạo điều kiện bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc.
Nhìn một cách tổng quát, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với tăng cường đầu tư cho nguồn lực để phát triển văn hóa đã được nhận thức một cách toàn diện và sâu sắc, thể hiện rõ quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong việc tạo nên một bước chuyển biến để phát triển văn hóa, con người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Đây chính là tiền đề chính trị và pháp lý cơ bản để khơi dậy các nguồn lực phát triển văn hóa và xây dựng con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên, từ chính sách đến thực tiễn vẫn còn những khoảng cách, độ chênh, thậm chí mâu thuẫn cần khắc phục để tạo nên sự thống nhất, nâng cao hiệu quả thực tiễn của các chính sách này.
2. Thực tiễn triển khai thực hiện chính sách khơi thông nguồn lực phát triển văn hóa
Trên cơ sở triển khai các Nghị quyết của Đảng và Quyết định của Quốc hội, của Chính phủ, nguồn lực đầu tư từ phía Nhà nước và xã hội cho phát triển văn hóa, con người đã được nâng lên và sử dụng có hiệu quả. Hệ thống cơ sở vật chất, điều kiện hoạt động của hệ thống các thiết chế văn hóa, nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi, chống xuống cấp di tích lịch sử văn hóa, bảo tồn một số di sản văn hóa phi vật thể truyền thống có nguy cơ mai một, phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa.
Thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa và Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa, Chính phủ đã hỗ trợ trực tiếp cho các địa phương trên cả nước chống xuống cấp và tu bổ di tích với thứ tự ưu tiên: chống xuống cấp; tu bổ di tích; tôn tạo di tích. Kết quả như sau: Giai đoạn 2011-2015: 1.436,844 tỷ đồng/ 1.302 di tích; Giai đoạn 2016-2018: 124,4 tỷ đồng/ 238 di tích (9).
Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy các hoạt động xã hội hóa trên lĩnh vực văn hóa và đổi mới, sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp văn hóa Nhà nước. Nhiều đơn vị sự nghiệp văn hóa, báo chí, xuất bản, cơ sở đào tạo của Nhà nước đã chuyển sang cơ chế tự chủ có nguồn thu nhập tốt để tái đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật, áp dụng công nghệ tiên tiến trong tổ chức, quản lý và hoạt động nghiệp vụ. Nhân dân ở các địa phương đã góp sức người, sức của, đất đai, tài chính để nâng cao đời sống văn hóa, xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở, đóng góp tích cực vào bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ở cơ sở.
Nhà nước tiếp tục đầu tư cho hoạt động của các Hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương và địa phương, đầu tư cho các chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, có chính sách đặt hàng và khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tổ chức tôn vinh các danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú theo định kỳ…
Nguồn vốn của Việt kiều và tổ chức quốc tế cho phát triển văn hóa, con người đã được nâng lên. Việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn phát triển văn hóa và con người đã được cải thiện…
Tuy nhiên, trong những năm đổi mới vừa qua, công tác đầu tư nguồn lực cho phát triển văn hóa, con người còn một số những bất cập và yếu kém sau:
Thứ nhất, việc thể chế quan điểm của Đảng về đầu tư nguồn lực để phát triển văn hóa còn chậm, nhất là thể chế hóa quan điểm “đầu tư cho văn hóa tương đương với mức tăng trưởng kinh tế”; “Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở những nơi còn khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản”… Ưu tiên đầu tư một số cơ sở đào tạo trọng điểm, chất lượng cao và một số ngành công nghiệp văn hóa chủ đạo”.
Thứ hai, việc đầu tư của Nhà nước để phát triển cơ sở hạ tầng văn hóa còn thấp. Kinh phí bố trí mua sắm trang thiết bị hiện đại, tiên tiến, áp dụng công nghệ số và phần mềm thông minh vào tổ chức, quản lý còn hạn chế. Việc duy trì và bổ sung các trang thiết bị cho các hoạt động văn hóa tại các thiết chế văn hóa từ trung ương đến cơ sở gặp nhiều khó khăn. Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2016-2020 đầu tư mới chỉ đạt được một số việc, chưa làm thay đổi căn bản được diện mạo cơ sở hạ tầng văn hóa ở các vùng miền, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi và hải đảo.
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu. Chính sách đãi ngộ, sử dụng nhân tài trên lĩnh vực văn hóa còn tự phát, tùy vào mỗi địa phương, chưa trở thành chính sách chung của quốc gia.
Nguồn vốn xã hội đầu tư phát triển văn hóa ngày càng gia tăng, nhưng phần lớn tập trung vào các công trình phục vụ cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và một số lĩnh vực văn hóa phục vụ cho mục đích kinh doanh. Việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho phát triển sản phẩm du lịch văn hóa và nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành Du lịch gặp khó khăn.
Thứ tư, công tác quản lý, đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn lực để phát triển văn hóa còn nhiều bất cập, nhất là hiệu quả trong việc sử dụng kinh phí, đất đai, trong việc quản lý và thực thi chính sách, pháp luật, đề án, kế hoạch liên quan đến hoạt động văn hóa ở cơ sở.
Thứ năm, việc triển khai nguồn lực đầu tư để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa của Chính phủ và các bộ, ngành liên quan còn nhiều lúng túng, thiếu hành lang pháp lý để điều chỉnh, hướng dẫn.
Chính sách hạn chế và yếu kém này đã gây nên khoảng cách giữa quyết tâm chính trị cao của Đảng và Nhà nước với thực tiễn đầu tư nguồn lực để phát triển văn hóa ở các cấp, các ngành. Thậm chí, có nơi, có lúc, nguồn lực đầu tư từ Trung ương về địa phương bị cắt giảm. Có địa phương chuyển nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực văn hóa vào khu vực khác, gây khó khăn cho cơ sở, nhất là trong nâng cấp các thiết chế văn hóa và đào tạo nguồn nhân lực văn hóa ở cơ sở.
Nguyên nhân dẫn đến có độ chênh, trễ, thậm chí mâu thuẫn giữa chính sách đến thực tiễn trong đầu tư nguồn lực để phát triển văn hóa có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chính. Trước hết, một số cấp ủy và chính quyền địa phương chưa nhận thức rõ vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững đất nước, chưa thấy rõ đầu tư nguồn lực cho phát triển văn hóa là đầu tư để phát triển bền vững. Việc bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu đầu tư và sử dụng nguồn lực cho văn hóa còn bất cập. Việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành luật pháp và chính sách còn chậm. Một số chính sách ban hành rồi nhưng khó khả thi hoặc không phù hợp so với thực tiễn. Công tác bố trí ngân sách cho văn hóa còn hạn chế. Một số nơi sử dụng chưa hiệu quả, thậm chí lãng phí. Cơ chế, chính sách thu hút các nguồn lực từ xã hội cho phát triển văn hóa còn chưa đồng bộ và chưa thống nhất. Công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai, thực thi chính sách từ trung ương đến cơ sở còn hạn chế.
3. Một số kiến nghị nhằm tăng cường đầu tư nguồn lực cho phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
Thứ nhất, cần tiếp tục quán triệt Kết luận số 76-KL/TW ngày 4-6-2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về văn hóa. Thể chế hóa đồng bộ quan điểm tăng cường đầu tư cho văn hóa tương ứng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư phát triển bền vững đất nước, khắc phục quan điểm coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư chống xuống cấp hay là chỉ để đảm bảo duy trì phúc lợi xã hội. Chú trọng đầu tư phát triển lực lượng nòng cốt, chủ đạo để có thể dẫn dắt, truyền cảm hứng, lan tỏa các giá trị văn hóa tốt đẹp tới cộng đồng.
Thứ hai, Chính phủ và các địa phương cần xây dựng chiến lược và kế hoạch đầu tư nguồn lực để phát triển văn hóa, con người gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của từng thời kỳ, coi đây là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển chung. Tăng mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa tương đương 2% tổng ngân sách, khuyến khích các địa phương và các doanh nghiệp đầu tư cho văn hóa. Đẩy mạnh xã hội hóa đúng hướng nhằm huy động các nguồn lực đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con người.
Thứ ba, Nhà nước xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ tư, khuyến khích thành lập các quỹ văn hóa, quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học, nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản.
Thứ năm, xây dựng một số công trình văn hóa có trọng điểm. Các địa phương, cơ quan, công sở, trường học, khu công nghiệp, khu dân cư, khu đô thị mới… Có thiết chế văn hóa phù hợp (thư viện, nhà văn hóa, công trình thể thao) tạo điều kiện cho người dân tham gia hoạt động và hưởng thụ văn hóa.
Thứ sáu, khuyến khích đầu tư các trung tâm công nghiệp văn hóa tại các địa phương. Nhà nước đẩy mạnh đầu tư cho một số ngành công nghiệp văn hóa mũi nhọn, có tính định hướng và dẫn dắt các hoạt động văn hóa, làm động lực xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội (nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, các loại hình nghệ thuật truyền thống, nghệ thuật các dân tộc thiểu số…). Hỗ trợ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ tri thức văn nghệ sĩ, bồi dưỡng tài năng về văn học, nghệ thuật. Chú trọng đào tạo đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tạo và hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật truyền thống.
Thứ bảy, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động đầu tư cho phát triển văn hóa, con người. Thực hiện công khai, minh bạch từ Trung ương đến cơ sở. Tăng cường hiệu quả của đầu tư, chống tham nhũng, lãng phí; nâng cao hiệu quả sử dụng của các thiết chế văn hóa đã được xây dựng.
Trên đây là một số giải pháp cơ bản có quan hệ mật thiết với nhau để đảm bảo sự thống nhất đồng bộ giữa chính sách và thực tiễn trong phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển con người trong thời kỳ mới, góp phần quan trọng vào việc phát huy giá trị văn hóa và con người trong xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1998, tr.78, 79.
3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.61, 62.
5, 6, 7. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhandan.vn, 24-11-2021.
8. Ban Tuyên giáo T.Ư, Báo cáo số 420-BC/BTGTW ngày 29- 5-2020 Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyếtsố 33-NQ/TƯ của BCH Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
9. Bộ VHTTDL, Báo cáo số 16/BC-BVHTTDL ngày 22/01/2020 tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020, Hà Nội.
PGS, TS PHẠM DUY ĐỨC
Nguồn: Tạp chí VHNT số 515, tháng 11-2022