Ví, giặm ra đời và phát triển từ TK XVII-XVIII, trở thành hình thức trình diễn dân gian phổ biến của cộng đồng, với sự tham gia của nhiều tầng lớp, từ người lao động đến văn nhân, nho sĩ. Ngày nay, trung tâm của di sản ví, giặm ở các làng nằm hai bên bờ sông Lam và sông La như làng Kim Liên, Bồi Sơn (Nghệ An); Thạch Việt, Trường Lưu (Hà Tĩnh). Ví, giặm chiếm vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Nghệ Tĩnh, được thực hành phổ biến trong đời sống, trong các cuộc vui, lễ hội, liên hoan, giao lưu giữa những nhóm cộng đồng và còn được khai thác thành các trình diễn nghệ thuật trên sân khấu.
Thời gian qua, công tác quản lý nhà nước đối với dân ca ví, giặm (DCVG) Nghệ - Tĩnh đã đạt được kết quả trên nhiều mặt, cụ thể: Sở VHTTDL hai tỉnh đã chủ động tham mưu cho UBND trong quản lý nhà nước đối với DCVG, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và được đánh giá là mô hình tương đối phù hợp trong công tác quản lý di sản. Việc phối hợp giữa các sở, ban, ngành và địa phương trong công tác quản lý di sản đã từng bước đạt hiệu quả. Đặc biệt, ý thức trách nhiệm của các cấp, ngành và cộng đồng đối với việc giữ gìn di sản đã có những chuyển biến rõ rệt. Công tác quản lý nhà nước về hoạt động truyền dạy DCVG trong cộng đồng và trong hệ thống trường học trên địa bàn hai tỉnh được triển khai, phối hợp thực hiện. Cơ sở thiết chế phục vụ cho hoạt động thực hành, bảo tồn DCVG tại cộng đồng được đầu tư. Các hoạt động tuyên truyền, quảng bá di sản được quản lý, đặc biệt cơ chế tôn vinh, đãi ngộ các nghệ nhân được triển khai, góp phần khích lệ các nghệ nhân tích cực cống hiến đối với việc lưu giữ và truyền dạy dân ca trong cộng đồng. Công tác tu bổ, tôn tạo di tích, không gian diễn xướng của DCVG được quan tâm đầu tư, công tác sưu tầm, nghiên cứu được triển khai, góp phần lưu giữ những giá trị đặc sắc của DCVG. Các chương trình nghệ thuật về DCVG được tổ chức thường xuyên, đa dạng bằng nhiều hình thức, góp phần chuyển tải các giá trị của DCVG Nghệ - Tĩnh tới cộng đồng trong nước và thế giới.
Tuy nhiên, DCVG Nghệ - Tĩnh hiện nay đang đứng trước những thách thức, việc bảo tồn hát ví, giặm theo lối mới, dẫn đến làm sai lệch các yếu tố truyền thống, mai một các giá trị về nghệ thuật âm nhạc, ngôn ngữ, bài bản, kỹ thuật hát. Các biến chuyển trong không gian sinh sống, chuyển cư, chuyển nghề, mức sống, cùng nhiều yếu tố như chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội làm cho ví, giặm có nguy cơ bị biến dạng. Việc phổ thông hóa tiếng Nghệ trong ví, giặm, vô hình trung đã làm mất đi nhiều nét riêng, đặc sắc của loại hình này, cho dù đó là một xu thế tất yếu của quá trình hội nhập văn hóa... Đặc biệt, việc bảo tồn các nghệ nhân - người giữ hồn cho di sản đang cần những giải pháp đồng bộ đối với quá trình bảo tồn, phát triển ví, giặm trong xu thế hội nhập.
Công tác quản lý nhà nước đối với di sản vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh đã tích cực xây dựng nhiều dự án nhằm bảo tồn di sản, song việc triển khai thực hiện các hạng mục của từng dự án còn chậm. Công tác tham mưu đề xuất cơ chế, chính sách thuộc một số lĩnh vực đối với di sản DCVG chưa kịp thời và đồng bộ, một số chủ trương của hai tỉnh tuy đã triển khai nhưng hiệu quả còn thấp, như: việc hỗ trợ bảo tồn không gian làng ví, giặm. Những chính sách đối với cộng đồng còn hạn chế, vẫn chỉ dừng lại ở bước đầu thể hiện, một số phong tục, lễ nghi liên quan tới DCVG Nghệ - Tĩnh chưa được phục dựng, cần có cơ chế khuyến khích nam giới tham gia sinh hoạt văn hóa ví, giặm; việc sưu tầm, nghiên cứu bước đầu đã được quan tâm, tuy nhiên chưa có chính sách cho việc xuất bản những công trình nghiên cứu về DCVG. Do vậy, nhiều tư liệu có giá trị được sưu tầm, lưu giữ tại kho mà không phát huy được hiệu quả; nhận thức của một số cơ quan, đơn vị và nhân dân về giá trị, về công tác bảo vệ, phát huy giá trị di sản chưa đầy đủ.
Một số nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế nêu trên, như: DCVG Nghệ - Tĩnh cũng giống như các di sản văn hóa thế giới khác của Việt Nam thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Di sản văn hóa, nhưng phạm vi, nội dung Luật chưa có nội dung quy định cụ thể cho quản lý di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, rất khó khăn khi áp dụng vào thực tế quản lý. Việc chấp hành các quy định cũng như văn bản chỉ đạo của tỉnh về quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị DCVG Nghệ - Tĩnh của các tổ chức, cá nhân còn chưa nghiêm túc. Trách nhiệm của một số ngành, địa phương trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm đối với hoạt động biểu diễn, ca hát ví, giặm, chưa chủ động, thống nhất, đồng bộ nên dẫn đến tình trạng chồng chéo, buông lỏng quản lý trên một số lĩnh vực hoạt động, như chưa có chế tài pháp lý đủ mạnh để điều chỉnh hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quy chế, quy định bảo tồn di sản. Công tác hoạch định những chính sách, giải pháp quản lý, bảo tồn DCVG còn thiếu khoa học, chưa đồng bộ. Bên cạnh đó, nhận thức về quản lý bảo tồn DCVG của cấp ủy đảng, chính quyền ở một số địa phương còn hạn chế, chưa đầy đủ. Do tác động của yếu tố thời đại, nên một bộ phận giới trẻ ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh không chú ý tới DCVG hoặc chỉ tập trung vào ví, giặm lời mới không đam mê với ví, giặm lời cổ. Đội ngũ cán bộ chuyên môn còn thiếu và yếu (1).
Để quản lý một cách hiệu quả đối với di sản văn hóa phi vật thể DCVG Nghệ - Tĩnh, công tác quản lý nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng, góp phần to lớn trong việc thực hiện thành công mục tiêu. Thực tế cho thấy, DCVG đang có những cơ hội nhất định, nhưng đứng trước những khó khăn, thách thức, đòi hỏi phải nắm bắt, tận dụng được cơ hội, phát huy những điểm mạnh, chủ động khắc phục khó khăn. Để giải quyết những vấn đề trên, phải có các giải pháp hữu hiệu đối với DCVG Nghệ - Tĩnh trong thời gian tới. Cụ thể:
Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục, pháp luật, chính sách quản lý nhà nước đối với DCVG Nghệ - Tĩnh
Vai trò của cộng đồng có ý nghĩa quyết định đối với việc bảo tồn DCVG Nghệ - Tĩnh. Điều này phụ thuộc vào nhận thức và hành vi, thái độ ứng xử của cộng đồng dân cư. Vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, chính sách quản lý của nhà nước đối với DCVG cần được đẩy mạnh và xác định ở vị trí ưu tiên. Bên cạnh đó, trách nhiệm bảo tồn, phát huy những giá trị DCVG là công việc cần thiết, tạo tiền đề cho sự phát triển ngành Du lịch ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh nói riêng và cả nước nói chung. Việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật về quản lý nhà nước đối với DCVG cần được tổ chức thành nhiều chương trình tuyên truyền với hình thức phong phú, phù hợp với từng đối tượng. Đây là một trong những giải pháp tốt nhằm nâng cao ý thức cộng đồng, cũng như tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, hành động của cộng đồng, tạo tiền đề phát triển du lịch và góp phần bảo vệ DCVG Nghệ - Tĩnh.
Thứ hai, xây dựng chính sách quản lý đối với DCVG Nghệ - Tĩnh
Trong giai đoạn vừa qua, các cấp ủy đảng, chính quyền và cơ quan chức năng của hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh đã tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước, xây dựng và ban hành tương đối đầy đủ các văn bản quy định về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát huy DCVG Nghệ - Tĩnh. Hai tỉnh đã từng bước xây dựng và hoàn thiện: quy hoạch đề án phát triển văn hóa nghệ thuật, thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở, chương trình hành động, kế hoạch triển khai đầu tư bảo vệ và phát triển DCVG; chương trình đề án, giáo trình truyền dạy DCVG đã và đang triển khai trên địa bàn tỉnh Nghệ An; các văn bản quản lý nhà nước có liên quan đến nội dung củng cố, phát triển thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ và phát huy DCVG Nghệ - Tĩnh.
Bên cạnh đó, UBND các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh còn ban hành triển khai các cơ chế, chính sách liên quan đến nghệ nhân, nghệ sĩ, người thực hành di sản DCVG; cơ chế đầu tư bảo vệ di sản văn hóa, khuyến khích xã hội hóa về văn hóa nghệ thuật, bảo vệ di sản văn hóa về thu hút đầu tư, tài chính, đất đai cho văn hóa nghệ thuật, bảo vệ di sản văn hóa vật thể và phi vật thể; về phát triển nguồn nhân lực văn hóa, nghệ thuật, vinh danh những người có đóng góp về văn hóa, nghệ thuật…
Tuy nhiên, cần xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật dành riêng cho DCVG Nghệ - Tĩnh, bởi lẽ đây là một di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại, nằm trong danh mục các di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, đồng thời là đối tượng điều chỉnh của nhiều văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế. Đồng thời tiến hành xây dựng, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho công tác quản lý, bảo tồn và phát huy di sản.
Thứ ba, củng cố tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đẩy mạnh công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước là nhân tố quan trọng quyết định kết quả quản lý. Đây cũng là nhân tố trực tiếp tiếp thu và triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh về việc quản lý, bảo tồn DCVG Nghệ - Tĩnh. Việc củng cố tổ chức bộ máy nhằm kiện toàn, đổi mới tổ chức bộ máy của các phòng ban trực thuộc Sở VHTTDL, Trung tâm Bảo tồn và phát huy di sản xứ Nghệ với việc thực hiện nhiệm vụ, đảm bảo gọn nhẹ, chuyên môn hóa cao, không chồng chéo trong thực thi nhiệm vụ, đồng thời phải xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý đáp ứng tốt nhiệm vụ được giao.
Nâng cao trình độ cán bộ làm công tác quản lý di sản là việc làm cần thiết và thường xuyên. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, các hướng dẫn viên, thuyết minh, nhân viên phục vụ, tiến tới chuẩn hóa cán bộ đáp ứng được công tác quản lý và phục vụ nhân dân có nhu cầu tìm hiểu về văn hóa xứ Nghệ. Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, nhân viên, cần tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao năng lực, trình độ, kỹ thuật, tiếp thu công nghệ quản lý di sản thông qua các hội nghị, hội thảo, tập huấn trong và ngoài nước.
Thứ tư, tăng cường thanh tra, kiểm tra, quản lý nhà nước đối với DCVG Nghệ - Tĩnh
Để tăng cường quản lý nhà nước đối với DCVG Nghệ - Tĩnh, Sở VHTTDL cần chủ động phối hợp với các ban, ngành, địa phương có liên quan thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động quản lý, đầu tư và bảo tồn DCVG, cụ thể: Một là, cần tiến hành đánh giá, khảo sát lại toàn bộ hiện trạng công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị DCVG Nghệ - Tĩnh; rà soát lại các văn bản pháp quy, văn bản chỉ đạo có liên quan, làm cơ sở để xây dựng thống nhất hệ thống văn bản chỉ đạo trong quản lý. Hai là, điều chỉnh, bổ sung quy chế quản lý hoạt động biểu diễn DCVG, quy chế phối hợp liên ngành về quản lý di sản DCVG Nghệ - Tĩnh. Ba là, rà soát, kiểm tra các hoạt động biểu diễn DCVG để quản lý chặt chẽ, hiệu quả, đảm bảo các hoạt động diễn ra có tổ chức, hệ thống, chất lượng, được quản lý đầy đủ không ảnh hưởng đến giá trị của di sản.
Thứ năm, chú trọng cơ chế đãi ngộ, tôn vinh đối với nghệ nhân DCVG Nghệ - Tĩnh
Cũng như nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể khác, việc bảo tồn DCVG còn phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức và hành vi của các chủ thể sáng tạo, thực hành và sở hữu di sản. Do vậy, vai trò của các cá nhân, cộng đồng là những nhân tố mang tính quyết định đến sự trường tồn và lan tỏa của di sản. Bảo vệ nghệ nhân đồng nghĩa với việc bảo vệ di sản. Xác định rõ vai trò quan trọng của các nghệ nhân trong việc bảo tồn, lưu truyền DCVG, nhất là các nghệ nhân có sự đam mê, tự nguyện, tích cực tham gia học, hát và truyền dạy dân ca, là lực lượng nòng cốt trong việc nắm giữ và trao truyền di sản cho các thế hệ. Cụ thể:
Đối với nghệ nhân: Có cơ chế chính sách đối với nghệ nhân, những người hoạt động DCVG tại các cộng đồng, như có phụ cấp hằng tháng cho các nghệ nhân đã được phong tặng, ngoài ra có chế độ riêng cho các nghệ nhân đang thực hiện truyền dạy và thực hành DCVG tại địa phương; đồng thời hỗ trợ cho những người có năng khiếu tham gia học DCVG Nghệ - Tĩnh. Tiếp tục đề nghị phong tặng danh hiệu nghệ nhân DCVG đối với những người có đủ tiêu chuẩn theo quy định. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nghệ nhân được tham gia vào hoạt động quản lý, bảo vệ di sản, chú ý công tác đào tạo nghệ nhân trong cộng đồng theo hình thức truyền thống.
Cần tiếp tục hoàn thiện bộ tiêu chí về công nhận nghệ nhân DCVG, đồng thời bổ sung, hoàn thiện danh sách nghệ nhân. Xây dựng quy định lộ trình xét công nhận nghệ nhân DCVG Nghệ - Tĩnh các cấp, hỗ trợ đào tạo nghệ nhân kế cận theo hình thức truyền thống. Bên cạnh đó, cần được ngân sách của tỉnh hỗ trợ mức phí tham gia bảo hiểm y tế hằng năm. Được hưởng chế độ mai táng phí áp dụng đối với công chức, viên chức. Những nghệ nhân xuất sắc sẽ được đề nghị Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú được hưởng chế độ theo quy định của Nhà nước. Trường hợp không có chế độ đãi ngộ (mức trợ cấp hằng tháng, chế độ bảo hiểm y tế, mai táng phí) thì tỉnh cũng cần có chế độ riêng đối với các nghệ nhân.
Đối với các phường DCVG, câu lạc bộ DCVG Nghệ - Tĩnh: Xây dựng cơ chế hỗ trợ kinh phí tập luyện, đầu tư trang thiết bị âm thanh, nhạc cụ, trang phục cho các phường DCVG để duy trì luyện tập và biểu diễn; Xây dựng cơ chế hỗ trợ các cá nhân, các câu lạc bộ, đội văn nghệ tham gia các cuộc giao lưu văn nghệ, hội diễn, liên hoan tiếng hát dân ca từ cấp xã, huyện, tỉnh và Trung ương.
Thứ sáu, đối với các tác phẩm DCVG Nghệ - Tĩnh
Việc sưu tầm các bài bản, lề lối, phong tục, các hình thức diễn xướng của DCVG là yêu cầu, nhiệm vụ cần thiết và cấp bách hiện nay. Trong những năm qua, hai tỉnh đã tích cực triển khai công tác sưu tầm, nghiên cứu về DCVG bước đầu có những thành quả đáng khích lệ như đã tổ chức triển khai đợt khảo sát, kiểm kê tổng thể trên phạm vi toàn tỉnh về hoạt động sinh hoạt văn hóa ví, giặm…
Việc sưu tầm, bổ sung tư liệu về DCVG Nghệ - Tĩnh nhằm gìn giữ và lưu truyền cho các thế hệ mai sau về bài bản, giọng điệu, lề lối, các chặng hát của các phường DCVG truyền thống. Tiếp tục thiết lập, hệ thống hóa những dữ liệu liên quan đến DCVG Nghệ - Tĩnh và chân dung các nghệ nhân, đưa vào lưu trữ, phổ biến truyền dạy và phục vụ công tác nghiên cứu, tìm hiểu về giá trị của di sản. Nghiên cứu tổng thể và chuyên sâu các khía cạnh của di sản như: âm nhạc, lịch sử, các hình thức diễn xướng, sinh hoạt DCVG xưa và nay, những xu hướng hình thành, phát triển DCVG để phục vụ cho công tác phục hồi các phường DCVG Nghệ - Tĩnh truyền thống. Hoàn thiện công tác kiểm kê di sản DCVG trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh theo quy định của Công ước 2003 UNESCO. Tiến hành kiểm kê di sản bằng phương pháp điền dã như: sưu tầm, ghi chép, ghi hình, ghi âm, lập biểu mẫu, tổng hợp thống kê, có chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với thực trạng và đặc trưng của DCVG Nghệ - Tĩnh.
Triển khai xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu hình ảnh (phim, ảnh) và số hóa DCVG Nghệ - Tĩnh lưu trữ tại Bảo tàng tỉnh, tại hai trạm vệ tinh ở hai tỉnh, Trung tâm Dữ liệu di sản văn hóa (Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam) và Viện Âm nhạc để phục vụ công tác nghiên cứu bảo vệ, dự báo, thông tin tuyên truyền, quảng bá; kết nối trạm vệ tinh dữ liệu DCVG Nghệ - Tĩnh ở Nghệ An với Trung tâm Dữ liệu di sản văn hóa (Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam).
Thứ bảy, phục hồi các phường hát và không gian sinh hoạt DCVG truyền thống ở Nghệ An và Hà Tĩnh
Nếu như trước đây ví, giặm là thể hát dân ca được diễn xướng trong quá trình lao động, sản xuất và sinh hoạt đời sống thì đến nay, ví, giặm lại sống trong lòng cộng đồng thông qua nhiều hình thức, từ hát trong sinh hoạt đến tái hiện trên sân khấu. Ngày nay, mỗi người dân xứ Nghệ vẫn yêu mến và cố gắng gìn giữ những câu DCVG sâu lắng, nghĩa tình. Các cá nhân, cộng đồng ở hai tỉnh đã và đang tích cực bảo tồn, phát huy, truyền dạy DCVG. Trong bối cảnh đương đại, do tác động của thời kỳ hiện đại hóa, khi nhịp sống đã trở nên khẩn trương, nhanh, mạnh theo tác phong công nghiệp, các bài hát dân ca truyền thống có phần bị mai một, môi trường diễn xướng có những thay đổi, nhưng với sức sống mạnh mẽ, ví, giặm Nghệ - Tĩnh có số lượng người thực hành còn rất nhiều. Kết quả kiểm kê cho thấy, hát ví, giặm có ở 104 xã, phường, thị trấn, 259 làng của 26 huyện, thành phố, thị xã. Vì thế, để bảo tồn DCVG Nghệ - Tĩnh, làm cho loại hình sinh hoạt văn hóa này sống động, trước hết chúng ta cần tuân theo mô hình bảo tồn di sản mà UNESCO đề xướng là bảo tồn trong cộng đồng, cách hữu hiệu nhất để tăng cường sinh lực cho loại hình văn hóa này.
Cần có những chính sách phù hợp nhằm khôi phục các làng nghề, ngành nghề truyền thống để việc hát dân ca được gắn với không gian sinh hoạt và môi trường lao động của cộng đồng. Xây dựng các tổ, đội, nhóm, câu lạc bộ hát dân ca ở thôn, làng, thường xuyên sinh hoạt ca hát, gắn với sinh hoạt văn hóa cộng đồng để DCVG Nghệ - Tĩnh có môi trường tự thân phát triển. Bên cạnh đó, vẫn cần phát triển những không gian, hình thức sinh hoạt mới của DCVG trong các ca khúc, tiểu phẩm mới được sáng tác dựa vào chất liệu truyền thống. Đồng thời, phục dựng lại không gian diễn xướng, các bài bản cổ và hình thức hát của các phường DCVG truyền thống như: hát lẻ, hát đối đáp và hát cuộc, các chặng hát như hát dạo, hát đối, hát xe kết.
Quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại - DCVG Nghệ - Tĩnh là nhân tố quyết định, ảnh hưởng tới sự phát triển của du lịch Việt Nam nói chung và du lịch hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh nói riêng, đồng thời có tác động không nhỏ vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của hai tỉnh. Quản lý nhà nước đối với DCVG trong những năm qua tuy đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, nhưng công tác bảo tồn và phát huy giá trị DCVG Nghệ - Tĩnh vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập trong quá trình quản lý và tổ chức thực hiện. Để khắc phục những tồn tại, nâng cao hơn nữa vai trò và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với di sản, tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và cộng đồng cư dân trong việc giữ gìn, bảo vệ di sản, đồng thời tăng cường giải pháp cụ thể về bảo tồn, phát huy các tiềm năng thế mạnh của di sản một cách hiệu quả, cần phải có những chính sách, cơ chế đặc thù riêng biệt.
__________________________
1. Sở VHTTDL Nghệ An, Bảo tồn và phát huy giá trị dân ca ví, giặm Xứ Nghệ, Nxb Nghệ An, 2020.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Chí Bền, Bùi Quang Thanh, Dân ca Ví - Giặm Nghệ Tĩnh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2013.
2. Nguyễn Đình Đắc, Nghệ nhân dân gian dân ca hò, ví, giặm xứ Nghệ - Bảo tồn và phát huy các giá trị dân ca ví, giặm xứ Nghệ, Nxb Nghệ An, 2012.
3. Ninh Viết Giao, Báo cáo đề dẫn hội thảo - Bảo tồn và phát huy các giá trị dân ca ví, giặm xứ Nghệ, Nxb Nghệ An, 2012.
4. Nhiều tác giả, Bảo tồn và phát huy giá trị dân ca trong xã hội đương đại, (trường hợp dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2015.
NGUYỄN PHƯƠNG THANH
Nguồn: Tạp chí VHNT số 518, tháng 12-2022