Việt Nam đang trong quá trình thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo (GDĐT), đây được xem là một chiến lược, chính sách, biện pháp quan trọng hàng đầu để phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) nhằm phát triển lực lượng sản xuất để đưa đất nước đi lên giàu mạnh.
Vai trò của giáo dục, đào tạo với phát triển đất nước
Trong xu thế phát triển tri thức ngày nay, GDĐT được xem là chính sách, biện pháp quan trọng hàng đầu để phát triển ở nhiều nước trên thế giới.
Một là, CNH-HĐH phát triển lực lượng sản xuất phải dựa trên cơ sở nguồn nhân lực chất lượng cao, mà muốn có nguồn nhân lực chất lượng cao thì phải tiến hành GDĐT họ. GDĐT là đòn bẩy, điều kiện, cơ sở, động lực của quá trình CNH-HĐH nhằm phát triển lực lượng sản xuất, “giáo dục là quốc sách hàng đầu” (1). Bởi ngày nay, cả nhân loại đang bước vào TK XXI - thế kỷ của trí tuệ, kinh tế tri thức, vấn đề con người đã được đặt ra ở tầm cao mới, coi con người là vốn quý nhất, coi sự phát triển nguồn lực con người là cuộc cách mạng trong bối cảnh thế giới đang biến động mạnh mẽ, cùng hợp tác, cùng cạnh tranh. Nguồn lực con người là bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất. Vì vậy, việc tập trung giáo dục, chăm sóc, bồi dưỡng, đào tạo, phát huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, GDĐT là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế; ổn định chính trị xã hội; nâng cao chỉ số phát triển con người. GDĐT đóng vai trò quan trọng là chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. GDĐT không chỉ có vai trò quan trọng trên lĩnh vực sản xuất vật chất mà còn là cơ sở để hình thành nền văn hóa tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Giáo dục có tác động to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa, xây dựng ý thức pháp quyền và ý thức đạo đức, xây dựng nền văn hóa, văn học nghệ thuật, góp phần cơ bản vào việc hình thành lối sống mới, nhân cách mới của toàn bộ xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng con người và thế hệ thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội” (2).
Cần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Phát triển GDĐT không chỉ là yếu tố quan trọng hàng đầu, mà phải đi trước một bước. Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước hiện nay, Việt Nam đang cần một quyết sách toàn diện, căn bản trong sự nghiệp GDĐT. Trong những năm qua, GDĐT của Việt Nam dù đã có những đóng góp quan trọng trong quá trình CNH-HĐH và phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam, nhưng so với yêu cầu là động lực thúc đẩy CNH-HĐH vấn đề GDĐT của Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn. Số lượng lao động chưa qua đào tạo còn nhiều, hiện có khoảng 80% chưa được đào tạo nghề nghiệp chuyên môn. Giáo dục vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, chưa được ưu tiên nhất trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chưa được coi là nhân tố quyết định phát triển đất nước. Nhiều hạn chế, yếu kém của giáo dục đã được nêu vẫn chậm được khắc phục. Chính vì thế, để đổi mới căn bản và toàn diện GDĐT nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH-HĐH cần:
Thứ nhất, đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về GDĐT. Quản lý nhà nước về GDĐT là tất cả mọi thành tố của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm: nhân sự (cán bộ, giáo viên), chương trình, hoạt động giáo dục, người học, các nguồn lực, học liệu, môi trường giáo dục, cơ sở giáo dục, mối quan hệ trong giáo dục… Chính vì thế nên công tác đổi mới, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về GDĐT mang ý nghĩa quyết định tới sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà. Mặt khác, GDĐT của Việt Nam trong quá trình CNH-HĐH hiện nay, bên cạnh những thành tựu đã đạt được còn bộc lộ không ít hạn chế. Do đó, cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục theo tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở GDĐT; Quy hoạch và phát triển GDĐT phải được đặt trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng địa phương. Tăng cường công tác dự báo và kế hoạch hóa sự phát triển giáo dục. Có chính sách điều tiết quy mô và cơ cấu đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục tình trạng mất cân đối và lãng phí trong đào tạo. Gắn đào tạo với sử dụng. Xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước và GDĐT với cơ quan quản lý nhân lực và việc làm; Nhà nước thực hiện đúng chức năng định hướng phát triển, tạo lập khung pháp lý và kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong GDĐT, chống bệnh thành tích. Đổi mới tổ chức hoạt động, đề cao và bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, nhất là trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề; Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý giáo dục theo hướng làm tốt chức năng quản lý nhà nước, xây dựng, hoàn thiện các chính sách, cơ chế về GDĐT, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện mục tiêu, chương trình và chất lượng. Xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong ngành Giáo dục như tình trạng dạy thêm, học thêm, tiêu cực trong thi cử, tuyển sinh, đánh giá kết quả học tập và cấp chứng chỉ, văn bằng. Đổi mới cơ chế quản lý, bồi dưỡng cán bộ, sắp xếp, chấn chỉnh và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý giáo dục. Hoàn thiện hệ thống thanh tra giáo dục một cách toàn diện, đặc biệt chú trọng về công tác chuyên môn.
Tiếp tục sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và viện nghiên cứu để gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, sử dụng tối ưu nguồn năng lực hiện có về đội ngũ khoa học và cơ sở vật chất kỹ thuật. Nâng cao năng lực của các đại học quốc gia và đại học khu vực. Xây dựng một số trường đại học quốc gia lớn, một số trung tâm đào tạo kỹ thuật có chất lượng và uy tín cao. Quản lý tốt nội dung, chương trình và chất lượng đào tạo của các trường đại học mở, đại học dân lập... Đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng các trường công lập, bổ sung chính sách ưu đãi để phát triển các trường ngoài công lập và trung tâm giáo dục cộng đồng. Có lộ trình cụ thể cho việc chuyển một số cơ sở GDĐT công lập sang dân lập, tư thục, xóa bỏ hệ bán công. Hiện đại hóa một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội. Khuyến khích phát triển hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề ngoài công lập, kể cả trường do nước ngoài đầu tư. Mở rộng hợp lý quy mô giáo dục đại học, làm chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả đào tạo. Từng bước xúc tiến việc nối mạng thông tin quốc tế ở trường học; Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học nhằm giải đáp những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong lĩnh vực GDĐT; Tổ chức hoạt động của Hội đồng quốc gia giáo dục có hiệu quả tốt và phân cấp quản lý hợp lý giữa quản lý ngành, địa phương và các cơ sở giáo dục... Tăng cường mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả trong quan hệ trao đổi và hợp tác quốc tế về GDĐT, từng bước hiện đại hóa nền GDĐT phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH và hội nhập quốc tế; Cùng với những giải pháp chiến lược trên, nhiệm vụ cấp bách trước mắt trong những năm tới cần giải quyết dứt điểm là hoàn thiện chương trình sách giáo khoa, cải tiến chế độ thi cử, khắc phục tình trạng “thương mại hóa” giáo dục, ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực trong giáo dục.
Thứ hai, cần chú trọng việc tăng cường các nguồn lực cho GDĐT. Đó là sự quan tâm, đầu tư, chỉ đạo quản lý của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương nhằm phát triển các nguồn lực cho giáo dục, bao gồm các yếu tố vật chất và tinh thần như tài sản, tiền bạc, con người, chính sách, cơ chế, luật pháp, văn hóa, đời sống, sự quan tâm của toàn xã hội đến sự nghiệp GDĐT. Phát huy vai trò đào tạo nguồn nhân lực của các trường đại học, cao đẳng, trường nghề, các vườn ươm công nghệ để đào tạo lại nguồn nhân lực, thực hiện gắn kết giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp, xây dựng phát triển các phương thức đào tạo theo địa chỉ, thành lập các tổ hợp khép kín từ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ đến đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyển giao công nghệ và sản xuất - kinh doanh. Đây là giải pháp cơ bản tạo tiền đề cho phát triển GDĐT. Ngân sách chi cho GDDT tập trung ưu tiên, bồi dưỡng giáo viên, đào tạo cán bộ cho một số ngành trọng điểm, bồi dưỡng nhân tài, trợ giúp cho giáo dục ở những vùng khó khăn và diện chính sách. Tích cực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách. Xây dựng quỹ giáo dục quốc gia, quỹ khuyến học, quỹ tín dụng đào tạo. Nhà nước quy định cơ chế cho các doanh nghiệp đầu tư vào công tác đào tạo và đào tạo lại. Các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và các viện nghiên cứu lập cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học đúng với ngành nghề đào tạo. Trong quá trình phát triển GDĐT, cần chú trọng: “Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển GDĐT” (3). Điều này thể hiện trong việc nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển GDĐT, ngân sách nhà nước chi cho GDĐT là 20% tổng chi ngân sách. Đồng thời, đẩy mạnh công tác xã hội hóa GDĐT thực hiện kiên cố hóa trường học, chủ động việc đưa hạ tầng công nghệ thông tin vào trong dạy học. Khuyến khích và tạo điều kiện cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài giúp đỡ, đầu tư vào lĩnh vực GDĐT theo quy định của Nhà nước. Sử dụng một phần vốn vay và viện trợ của nước ngoài để xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ tích cực góp phần phát triển giáo dục. Kết hợp giáo dục xã hội, gia đình và nhà trường, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Nâng cao vai trò của hệ thống thông tin đại chúng như báo chí, xuất bản, phát thanh và truyền hình, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, phục vụ phát triển sự nghiệp giáo dục. Thể chế hóa chủ trương xã hội hóa GDĐT. Cần chú trọng việc nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý vào trong quá trình đổi mới GDĐT. Cần xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học, vì: “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới GDĐT” (4). Đội ngũ giáo viên là nhân tố cơ bản quyết định chất lượng của giáo dục cần được tôn vinh. Vì vậy, cần xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng, tâm huyết phấn đấu cho sự nghiệp GDĐT của nước nhà. Do đó, cần tăng cường thực hiện chương trình bồi dưỡng giáo viên, bồi dưỡng chuẩn hóa, nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ giáo viên. Nâng cao địa vị xã hội và địa vị kinh tế của đội ngũ giáo viên, không bố trí những người kém phẩm chất đạo đức làm giáo viên, kể cả làm giáo viên hợp đồng.
Chú trọng việc xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, họ là nguồn lực quan trọng nhất, là yếu tố quyết định tới sự phát triển khoa học, công nghệ của nước ta. Việt Nam đang dần bước sang giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội theo chiều sâu, nên việc chăm lo cho đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ đang trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình CNH-HĐH. Chính vì thế, cần có chương trình xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực là đội ngũ cán bộ khoa học, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp trong lĩnh vực phát triển khoa học, công nghệ của đất nước. Đồng thời, cần tạo điều kiện vật chất và môi trường làm việc khoa học để cán bộ khoa học, công nghệ phát triển tài năng, hưởng lợi ích chính đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp GDĐT và tăng cường cơ sở vật chất các trường học. Đây được coi là nội dung cốt lõi, là nhiệm vụ tiên quyết trong sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện GDĐT của nước ta hiện nay. Việc đổi mới về chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy và học tập, phương pháp thi, kiểm tra cần thực hiện theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, đồng thời vẫn phải phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề của người lao động. Chuẩn hóa về sách giáo khoa, giáo trình, sách tham khảo, quy trình GDĐT; về mục tiêu, phương pháp GDĐT; về đội ngũ giáo viên và quản lý giáo dục, về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ giảng dạy và học tập ở các cấp, các loại hình trường lớp khác nhau... Việc xác định các tiêu chí để đánh giá về chất lượng GDĐT và chuẩn hóa GDĐT theo các tiêu chí cụ thể, hợp lý là điều kiện cơ bản để nâng cao chất lượng GDĐT. CNH-HĐH cần thực hiện cả trong GDĐT. Cần tập trung hiện đại hóa trong GDĐT về các nội dung và quy trình đào tạo gắn với đổi mới phương pháp dạy và học, tăng cường phương tiện hiện đại cho dạy và học (công nghệ thông tin, viễn thông, nối mạng...).
Cần đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học theo xu hướng hiện đại hóa nhằm phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ, sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân, nâng cao trình độ GDĐT của đất nước ngang tầm với trình độ chung của khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, “cần tiến hành hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập”. Việc đổi mới GDĐT cần “theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học: yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả”. Có như vậy, mới “quy hoạch lại mạng lưới cơ sở GDĐT gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động cho đất nước” (5).
______________________
1, 3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.26, 98, 117, 27.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1998, tr.98.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2006.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2011.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2021.
TS BÙI XUÂN DŨNG
Nguồn: Tạp chí VHNT số 494, tháng 4-2022