Hội đua bò Bảy Núi là hoạt động văn hóa thể thao độc đáo mang nét đặc trưng riêng của đồng bào dân tộc Khmer tại hai huyện vùng núi Tri Tôn và Tịnh Biên (An Giang). Hằng năm, Hội đua bò Bảy Núi được tổ chức trang trọng trong dịp lễ Sel Dolta của dân tộc Khmer Nam Bộ (lễ cúng ông bà của người Khmer Nam Bộ, diễn ra vào cuối tháng 8 đầu tháng 9 âm lịch hằng năm). Đây là một trong những lễ hội lớn mang tính truyền thống của người Khmer tỉnh An Giang nói riêng, vùng Tây Nam Bộ nói chung để biểu lộ lòng tưởng nhớ, biết ơn đối với tổ tiên và công lao của những người đã khuất.
Tỉnh An Giang có gần 29.000 hộ dân tộc thiểu số (Khmer, Chăm, Hoa) với khoảng 115.000 người, chiếm 5,34% tổng dân số toàn tỉnh. Đồng bào dân tộc Khmer chiếm khoảng 4% tổng dân số toàn tỉnh, sống tập trung nhiều nhất ở 2 huyện miền núi Tri Tôn và Tịnh Biên. Người Khmer An Giang sống theo phum, sóc, hầu hết đều làm ruộng và làm rẫy, dùng bò để cày kéo, nên bò được người dân chăm sóc rất cẩn thận.
Không biết Hội đua bò có từ bao giờ, chỉ biết theo các vị cao niên vùng Bảy Núi thì từ xa xưa, mỗi năm vào ngày lễ Dolta, đồng bào Khmer ở Tịnh Biên - Tri Tôn (An Giang) thường mang thức ăn lên chùa dâng lên các nhà sư để cầu nguyện cho linh hồn những người đã khuất được siêu thoát. Trong dịp lễ này, thanh niên trai tráng trong phum sóc (làng) mang những đôi bò đến cày ruộng giúp nhà chùa. Cày xong, các chủ bò chọn những đôi bò bắt cặp với nhau để tranh tài kéo bừa trên những thửa ruộng xâm xấp nước vừa cày trước đó. Các sư, sãi thấy vậy đứng ra tổ chức (như là người trọng tài), treo thưởng đôi bò nào cày giỏi, chạy nhanh sẽ hưởng phần thắng là dây “Cà tha” (lục lạc đeo cổ bò). Dần dần, tục lệ đã trở thành lễ hội Đua bò truyền thống hằng năm của người dân tộc Khmer tỉnh An Giang.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long có đông đảo đồng bào dân tộc Khmer sinh sống nhưng duy nhất trong cả nước chỉ An Giang mới có môn thi đấu hấp dẫn này nên vào ngày hội, rất đông du khách trong và ngoài nước đến xem hội đua bò cũng như thưởng thức cảnh đẹp của vùng đất Tri Tôn - Tịnh Biên huyền bí.
Để chuẩn bị cho cuộc đua bò, người ta chọn một khoảnh ruộng bằng phẳng, chiều dài chừng 200m, ngang 100m có nước xăm xắp, được “trục” xới nhiều lần cho có độ trơn của bùn, bốn bên có bờ bao và điểm đích có đoạn đường trống để làm độ dừng an toàn cho bò. Đoạn đường đua chính chỉ cần 120m theo khoảnh ruộng cặp sát bờ bao. Nơi xuất phát được cắm 2 cây cờ màu xanh, đỏ - mỗi cây cách nhau 5m và tại điểm đích cũng vậy. Đôi bò nào đứng ở vị trí cây cờ màu gì thì điểm đích cũng theo màu của cây cờ đó. Nếu trong khi đua, đôi bò nào chạy tạt ra khỏi đường đua sẽ bị loại, nếu bị ngã hoặc rơi ra khỏi giàn bừa coi như thua cuộc và đôi bò sau vượt lên đôi bò trước là thắng. Những “nài đua bò” được người dân địa phương gọi là người cầm vàm, sẽ phải đứng thật vững điều khiển đôi bò trong cuộc đua. Ðôi bò phải kéo theo chiếc bừa và người cầm vàm đứng trên đó điều khiển. Một số con bò còn được đeo cặp lục lạc vàng rực, rộn ràng những tiếng nhạc vui tai.
Vào sáng sớm của ngày hội đua bò, người dân khắp nơi kéo đến, có người ở cách xa hàng vài cây số cũng đến xem và đứng thành hàng bao quanh các bờ bao mang theo chiêng, trống; thậm chí mang theo cả xoong, nồi, mắm, muối nấu ăn tại chỗ để xem cho trọn vẹn cuộc đua. Chỗ xem cũng không cần cầu kỳ như xem bóng đá, đua ngựa hay một số môn thể thao khác, chỉ cần đứng ở vị trí hơi cao so với mặt sân đua hay leo lên bờ bao là đủ. Và tất cả cùng hò hét, cổ vũ cho cặp bò mà mình yêu thích. Khi hiệu lệnh xuất phát của trọng tài phát ra, người điều khiển cầm một khúc gỗ có gắn một cây đinh nhỏ chích mạnh vào mông bò, bò bị chích đau nên thừa sức phóng nhanh về phía trước trong sự cổ vũ náo nhiệt của đông đảo người xem. Từ lúc bắt đầu cho đến lúc kết thúc cuộc đua, không khí lễ hội luôn tràn ngập, tiếng vỗ tay, reo hò, cổ động cho những cặp bò tranh nhau quyết liệt để về đích. Nước bắn tung tóe kèm những pha rượt đuổi gay cấn, cùng những tiếng hô hào làm cho không khí ngày hội càng sôi nổi, rộn ràng, hấp dẫn. Kết thúc cuộc đấu, người điều khiển cặp bò vô địch nhận phần thưởng xứng đáng và sự tôn vinh của đối thủ. Người cầm vàm của đôi bò thắng cuộc sẽ được mọi người tôn vinh là người cầm vàm bò “can đảm” nhất vùng. Chính vì niềm hãnh diện ấy nên trước ngày thi đấu, các chủ bò hăng say đưa bò đi tập luyện, cho bò ăn, uống theo chế độ đặc biệt để tăng sức khỏe cho bò.
Theo quan niệm của đồng bào vùng Bảy Núi An Giang, đua bò có một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Đôi bò giành được giải cao trong năm được chủ nhân chăm sóc kỹ, để sang năm tham gia đua tiếp, bởi đôi bò giành chiến thắng không những mang lại cho chủ nhân của mình niềm kiêu hãnh mà còn mang đến cho cả phum, sóc một niềm vui, một nghị lực để giành nhiều thắng lợi trên các lĩnh vực khác, như bò của phum khỏe mạnh có sức dẻo dai, cày bừa tốt, giúp cho người dân thực hiện gieo trồng được dễ dàng, đem lại một mùa bội thu, dân làng no ấm.
Tính đến năm 2020, Hội đua bò đã trải qua 27 lần tổ chức, đã trở thành nét văn hóa độc đáo của cộng đồng vùng Bảy Núi nói riêng và tỉnh An Giang nói chung. Tháng 1/2016, lễ hội đua bò vùng Bảy Núi được Bộ VHTTDL đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Năm 2020, tỉnh An Giang phê duyệt Đề án bảo tồn và phát huy Hội đua bò Bảy Núi với mục tiêu nâng tầm Hội đua bò Bảy Núi thành Hội đua bò quốc tế. Đề án nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tạo ra sản phẩm tinh thần, thiết lập điểm đến trong chuỗi du lịch theo tuyến khép kín, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Theo đó, kinh phí thực hiện trong giai đoạn 2020-2025 gần 5,8 tỷ đồng; trong đó, ngân sách tỉnh An Giang gần 2,9 tỷ đồng, ngân sách các huyện Tịnh Biên, Tri Tôn gần 1,2 tỷ đồng và nguồn vốn xã hội hóa 1,7 tỷ đồng.
Hội đua bò truyền thống Bảy Núi là hoạt động giải trí lành mạnh, mang đậm nét văn hóa riêng biệt vùng sông nước nên dù nhiều lần tổ chức giải đấu vẫn hấp dẫn người dân, du khách náo nức vượt đường xa đến xem.
LÊ XUÂN TÙNG
Nguồn: Tạp chí VHNT số 477, tháng 10-2021