Đào tạo theo hệ thống tín chỉ (HTTC) là phương thức đào tạo sử dụng tín chỉ làm đơn vị đo kiến thức và đánh giá kết quả học tập của người học. sau khi tích lũy đủ lượng tín chỉ theo quy định, người học hoàn thành chương trình đào tạo và được cấp bằng tốt nghiệp. Đây là phương thức đào tạo linh hoạt, mềm dẻo, người học được làm chủ lộ trình học tập, được chủ động xây dựng kế hoạch và đăng ký học tập, tích lũy từng phần kiến thức theo tiến độ phù hợp với năng lực, điều kiện của bản thân và nhà trường, nhằm hoàn tất chương trình đào tạo.
1. Ưu điểm của đào tạo theo hệ thống tín chỉ
Lấy người học làm trung tâm
Đây chính là một xu thế tiếp cận, triết lý giáo dục, phương châm đào tạo… của các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Trong đó, người học được xác định là trung tâm, mục tiêu và động lực của tất cả hoạt động giáo dục. Phương thức đào tạo này cho phép ghi nhận kịp thời tiến trình tích lũy kiến thức và kỹ năng của người học. Ở đó, người học được chủ động xây dựng, thiết kế kế hoạch học tập của riêng mình, được quyền lựa chọn tiến độ học tập phù hợp với khả năng, sở trường, điều kiện và hoàn cảnh riêng.
Khác với phương thức đào tạo truyền thống, người học bị áp đặt bởi một kế hoạch, chương trình đào tạo đã được thiết kế sẵn, áp dụng chung cho cả khóa học, phương thức đào tạo theo HTTC nhằm cá thể hóa quá trình đào tạo, các nhà nghiên cứu gọi là “nguyên tắc tiệc buffet”. Theo PGS,TS Trần Thanh Ái, điều quan trọng nhất làm nên sự thay đổi căn bản về chất của học chế tín chỉ là sự thay đổi quan niệm về đào tạo, từ quan niệm lấy người dạy làm trung tâm, sang quan niệm lấy người học làm trung tâm. Quan niệm này đã dẫn đến việc thay đổi căn cơ vai trò của người dạy về: phương pháp truyền đạt kiến thức (méthode transmissive) hoặc cách tiếp cận nội dung (nhằm cung cấp cho người học càng nhiều kiến thức càng tốt) được thay thế bằng phương pháp tiếp cận mục tiêu sao cho người học đạt được mục tiêu xây dựng những kỹ năng quan trọng, ở bậc cao như phân tích, tổng hợp, phán đoán, phản biện, ra quyết định, giải quyết vấn đề… (1). Đây chính là bước chuyển đổi từ mục tiêu giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học.
Từ mục tiêu này, phương thức đào tạo theo HTTC đã đưa người học vào vị trí trung tâm, cho họ quyền chủ động xác định nhiệm vụ, xây dựng kế hoạch, quyết định lộ trình học tập và các hoạt động tự học, tự nghiên cứu của mình. Cho phép ghi nhận những kiến thức, kỹ năng mà người học tích lũy được từ nhiều môi trường khác nhau, bên ngoài trường, lớp để tính vào nội dung, thời lượng của chương trình đào tạo.
Như vậy, phương thức đào tạo theo HTTC đã hướng đến sự đa dạng của đối tượng người học, thực hiện mục tiêu bình đẳng trong giáo dục và tinh thần học tập suốt đời. Từ đó, mở ra cơ hội, điều kiện học tập cho nhiều đối tượng người học ở các lứa tuổi, trình độ, hoàn cảnh... khác nhau trong xã hội. “Về phương diện này, có thể nói học chế tín chỉ là một trong những công cụ quan trọng để chuyển từ nền giáo dục mang tính tinh hoa (elitist) sang nền giáo dục mang tính đại chúng (mass)” (2).
Phương thức đào tạo theo HTTC đã giảm đi sự nhồi nhét kiến thức từ phía người dạy, phát huy được sự tích cực, chủ động và sáng tạo của người học theo khả năng và mong muốn của chính họ, góp phần tích cực vào quá trình đổi mới giáo dục ở Việt Nam và trên thế giới.
Sự mềm dẻo và khả năng thích ứng cao
Sự mềm dẻo và khả năng thích ứng cao được xem là một trong những ưu điểm nổi trội của phương thức đào tạo theo HTTC. PGS, TS Lâm Quang Thiệp cho rằng: “Với học chế tín chỉ, sinh viên có thể chủ động ghi tên để đăng ký học các học phần khác nhau dựa theo những quy định chung về cơ cấu và khối lượng của từng lĩnh vực kiến thức. Cho phép sinh viên dễ dàng thay đổi chuyên ngành trong tiến trình học tập khi thấy cần thiết mà không phải học lại từ đầu. Các trường đại học có thể mở thêm ngành học mới một cách dễ dàng khi nhận được tín hiệu về nhu cầu của thị trường lao động và tình hình lựa chọn ngành nghề của sinh viên. HTTC cung cấp cho các trường đại học một ngôn ngữ chung, tạo thuận lợi cho sinh viên khi cần chuyển trường cả trong nước cũng như ngoài nước” (3).
Sự linh hoạt, mềm dẻo của phương thức đào tạo theo HTTC cho phép người học có thể thay đổi chuyên ngành trong quá trình học tập, chỉ cần bổ sung những tín chỉ còn thiếu để hoàn thành chương trình học. Cho phép người học được chuyển tiếp từ trường này sang trường khác phù hợp với hoàn cảnh và khả năng của họ mà không ảnh hưởng đến kết quả học tập. Các cơ sở đào tạo cũng qua đó mà hình thành mối liên thông, liên kết trong tổ chức đào tạo.
Phương thức đào tạo theo HTTC cho phép việc điều chỉnh chương trình đào tạo, bổ sung, thay thế môn học mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xã hội, thị trường lao động và nhu cầu của người học. Để thực hiện được điều đó, các cơ sở đào tạo phải luôn cập nhật, phát triển chương trình đào tạo, gắn mục tiêu đào tạo với yêu cầu sử dụng lao động, đáp ứng nhu cầu xã hội, thích ứng nhanh chóng với các thay đổi của sự phát triển kinh tế xã hội, thị trường lao động ở trong và ngoài nước… Thực tế này đã tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo phát triển những chương trình đào tạo song song, tổ chức nhiều chương trình đào tạo kép.
Các nhà nghiên cứu về giáo dục thống nhất quan điểm rằng, sự linh hoạt, mềm dẻo, khả năng thích ứng cao của phương thức đào tạo theo HTTC đã mang đến cho người học và cơ sở đào tạo nhiều cơ hội. Về cơ bản đáp ứng nhu cầu, điều kiện, hoàn cảnh và khả năng của người học; linh động về thời gian, địa điểm, nội dung, hình thức học tập và phương pháp giảng dạy; thích ứng nhanh với sự vận động, biến đổi và nhu cầu của xã hội.
Tạo được sự liên thông, công nhận lẫn nhau trong đào tạo
Về phía người học, phương thức đào tạo theo HTTC tính đếm kết quả học tập của người học theo từng học phần chứ không theo năm học, do đó, nếu như không vượt qua một học phần nào đó, người học vẫn được tiếp tục kế hoạch học tập mà không phải quay lại học từ đầu. Hoàn thành tín chỉ đến đâu được ghi nhận đến đó, vì vậy, khi tích lũy đủ số tín chỉ theo quy định, có thể đăng ký thêm một ngành học khác hoặc chuyển tiếp sang học tập ở một cơ sở đào tạo khác ở trong nước và ngoài nước nếu được chấp nhận.
Về phía các cơ sở đào tạo, nếu cùng triển khai HTTC, các trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực có thể tổ chức những môn học chung cho sinh viên của nhiều trường, nhiều khoa, tránh được hiện tượng cùng tổ chức giảng dạy một môn học ở nhiều nơi trong cùng một thời điểm, gây lãng phí về nguồn lực. Cách tổ chức lớp học nói trên cũng cho phép các cơ sở đào tạo sử dụng được đội ngũ giảng viên giỏi nhất và phương tiện học tập tốt nhất cho từng môn học. Điều quan trọng hơn cả là thông qua việc kết hợp tổ chức đào tạo này, các cơ sở đào tạo sẽ hình thành mối liên thông, liên kết, thừa nhận lẫn nhau trong đào tạo, giúp nâng cao hiệu quả, chất lượng và giảm giá thành đào tạo.
Theo PGS,TS Lâm Quang Thiệp, kết hợp với HTTC, nếu trường đại học tổ chức thêm những kỳ thi đánh giá kiến thức, kỹ năng mà người học tích lũy được bằng con đường tự học, tự nghiên cứu và cấp cho họ một tín chỉ tương đương, sẽ tạo thêm cho họ cơ hội có được bằng tốt nghiệp. Ở Mỹ, trên 1.000 trường đại học chấp nhận cung cấp tín chỉ cho những kiến thức và kỹ năng mà người học đã tích lũy được ở ngoài nhà trường (4).
Để hình thành được mối liên thông, liên kết trong tổ chức đào tạo như phân tích ở trên, đòi hỏi một phương pháp tổ chức học tập, quản lý đào tạo phải thật sự mềm dẻo, linh hoạt và khoa học. Cùng với đó, là sự điều chỉnh, đổi mới việc thiết kế, xây dựng chương trình đào tạo đảm bảo có sự liên thông hợp lý giữa trình độ đào tạo và ngành đào tạo khác nhau.
Hiệu quả cao trong quản lý đào tạo
Với sự linh hoạt và độ mở nhất định trong quan điểm, phương pháp và cách thức tổ chức triển khai..., phương thức đào tạo theo HTTC đã huy động được các nguồn lực giữa các đơn vị từ cấp khoa, phòng đến cấp trường trong tổ chức quản lý đào tạo.
Trên cơ sở sự thống nhất về phương thức quản lý, các phòng, ban, khoa… của những cơ sở đào tạo có sự phối hợp trong tổ chức, quản lý các hoạt động dạy và học. Chẳng hạn, đối với các môn học về kiến thức đại cương, kiến thức chung… sẽ căn cứ nhu cầu đăng ký môn học của người học để tổ chức các lớp học chung trong phạm vi toàn trường. Đối với các môn học cơ sở ngành sẽ tổ chức các lớp học chung trong phạm vi toàn khoa hoặc phối hợp cùng khoa khác để tránh sự lãng phí về tài chính và nguồn nhân lực.
Việc quản lý đào tạo trên nguyên tắc tính theo khối lượng tín chỉ giúp cho các cơ sở đào tạo quản lý hoạt động học tập, giảng dạy thuận lợi, cụ thể và rõ ràng hơn; quản lý một cách tập trung, thống nhất hơn; sử dụng các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) có hiệu quả hơn. Tạo điều kiện cho người dạy, người học, người quản lý, người giám sát… chủ động hơn trong xây dựng, kiểm soát kế hoạch học tập, nhằm đạt được mục tiêu đặt ra.
Như vậy, những ưu điểm của phương thức đào tạo theo HTTC đã phát huy được năng lực, nhu cầu, điều kiện… của người học; trí tuệ, bản lĩnh, kiến thức, phương pháp khoa học… của người dạy; uy tín, năng lực, thương hiệu… của cơ sở đào tạo… Những ưu điểm này đã khiến phương thức đào tạo theo HTTC trở thành một xu thế, một lựa chọn của nhiều nền giáo dục tiến bộ trên thế giới.
Múa ballet - Ảnh: Nguyễn Thanh Hà
2. Hạn chế của phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ
Cắt vụn kiến thức
Theo PGS, TS Lâm Quang Thiệp, một trong những hạn chế lớn nhất của phương thức đào tạo theo HTTC là cắt vụn kiến thức. Phần lớn các module trong HTTC được quy định tương đối nhỏ, khoảng 3 hoặc 4 tín chỉ, do đó, người dạy không có đủ thời gian để trình bày kiến thức một cách tuần tự, có đầu, có đuôi, theo một trình tự diễn biến liên tục, từ đó gây ấn tượng kiến thức bị cắt vụn (5).
Việc đăng ký môn học trong đào tạo theo HTTC do người học quyết định, nếu như cơ sở đào tạo không có sự hướng dẫn chi tiết và quy định cụ thể dễ dẫn đến hiện tượng đăng ký theo sở thích, theo số đông mà không tuân thủ trình tự đối với các môn học tiên quyết, môn điều kiện. Các môn học trong HTTC nếu không đảm bảo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ cơ bản đến nâng cao, từ cơ sở ngành đến chuyên môn sâu sẽ tạo ra sự cắt vụn, thiếu logic, thiếu liền mạch trong tiếp nhận kiến thức của người học.
Khó tạo nên sự gắn kết trong người học, người dạy
Đào tạo theo HTTC cho phép người học quyết định việc lựa chọn môn học, thời điểm học và giảng viên, nên mỗi người đều có những lựa chọn và dự liệu riêng về kế hoạch, lộ trình học tập của mình. Người học có thể học chung lớp ở môn học này, nhưng lại khác lớp đối với môn học khác. Bởi vậy, đào tạo theo HTTC không hình thành nên những tập thể lớp cố định. Mối quan hệ giữa người học với người học do đó thường không chặt chẽ, thiếu bền vững và khó tạo nên sự gắn kết. Điều này đã dẫn đến những khó khăn trong xây dựng các tập thể lớp học gắn kết chặt chẽ như đào tạo theo niên chế. Công tác tổ chức sinh hoạt lớp hoặc tổ chức các hoạt động tập thể, gây dựng các phong trào của người học sẽ gặp khó khăn. Đào tạo theo tín chỉ khuyến khích phát huy yếu tố cá nhân, sự tự giác trong mỗi cá nhân, đề cao vai trò của từng cá nhân nên trong phạm vi nào đó, nó sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định, thống nhất của tập thể.
Bên cạnh đó, khi học theo phương thức đào tạo tín chỉ, người dạy sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc nắm bắt, xác định đúng năng lực, nguyện vọng, nhu cầu của người học để đưa ra được phương pháp, kiến thức, cách gợi mở, định hướng phù hợp, dẫn đến hiệu quả của bài giảng không cao. Sự thiếu gắn kết trong mối quan hệ giữa người học và người dạy sẽ không hình thành mối quan hệ cộng cảm, quan tâm, chia sẻ lẫn nhau. Người học sẽ không quan tâm đến những điều người dạy mong muốn, cũng như những lợi thế mà người dạy đang có để khai thác, phục vụ cho nhu cầu học tập của bản thân.
Khó quản lý giờ tự học, kế hoạch học tập của người học
Do sự đa dạng của đối tượng người học và sự linh hoạt của chương trình, cơ sở đào tạo khó có thể đánh giá một cách chuẩn xác, thống nhất, công bằng các hoạt động tự học của người học.
Mặt khác, đào tạo theo HTTC không được tổ chức theo khóa học nên thời gian nhập học và tốt nghiệp của người học không đồng nhất, thậm chí còn được chia nhỏ lẻ theo nhiều nhóm khác nhau. Điều này có thể gây khó khăn cho việc quản lý đào tạo, xây dựng kế hoạch học tập... của cơ sở đào tạo nếu không có sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ thông tin.
Học không thực chất
Nhiều học giả, nhà nghiên cứu cho rằng, trong đào tạo theo HTTC, có một bộ phận người học chỉ cốt tích lũy đủ các tín chỉ để lấy được tấm bằng họ cần, chứ không thực sự quan tâm đến kiến thức nhận được. Để đạt được tín chỉ, người học sẽ chọn những môn dễ học hoặc chọn theo số đông bạn bè, miễn sao đạt đủ số điểm tối thiểu để hoàn thành kế hoạch học tập. Cách học đối phó, không thực chất này diễn ra ở khá nhiều cơ sở đào tạo, nhất là đối với những cơ sở đào tạo quản lý người học chưa thực sự sát sao, đội ngũ cố vấn học tập hoạt động chưa hiệu quả. Hơn nữa, với cách học này, người học tiếp nhận kiến thức một cách thiếu hệ thống, bập bõm, không thể trở thành chuyên gia của lĩnh vực mình theo học, cho dù có được tấm bằng tốt nghiệp.
3. Một số gợi mở về đào tạo theo tín chỉ lĩnh vực nghệ thuật
Đào tạo nghệ thuật là đào tạo năng khiếu với tính đặc thù rất cao từ công tác tuyển sinh, tổ chức đào tạo, thi tốt nghiệp và sử dụng nguồn nhân lực sau đào tạo. Những ưu điểm và hạn chế của phương thức đào tạo theo HTTC nêu trên cũng chính là những thuận lợi và khó khăn đối với các cơ sở đào tạo nghệ thuật khi tổ chức triển khai đào tạo theo HTTC. Để dung hòa giữa đặc thù của đào tạo nghệ thuật và đòi hỏi tất yếu của phương thức đào tạo theo HTTC, cần có những thay đổi căn cơ từ nhận thức đến hành động trong tổ chức đào tạo lĩnh vực nghệ thuật.
Thay đổi nhận thức của người dạy và người học về đào tạo theo HTTC
Trước hết, đội ngũ giảng viên, giáo viên cần được đào tạo và bồi dưỡng một cách có hệ thống để tiếp cận với triết lý giáo dục và phương pháp dạy học tích cực, phù hợp với phương châm giáo dục lấy người học làm trung tâm. Nếu giảng viên chưa thay đổi phương pháp giảng dạy, vẫn trung thành với lối truyền nghề, áp đặt cứng nhắc lên người học thì chưa thể hiện thực hóa phương thức đào tạo theo HTTC.
Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho người học về phương pháp, nguyên tắc đào tạo theo HTTC cùng các kỹ năng mềm như quản lý thời gian, cách làm việc nhóm, đặc thù ngành học, môn học… để tạo ra những thay đổi trong nhận thức, giúp người học chủ động tiếp cận và thay đổi. Nếu như người học chưa thực sự hiểu về phương thức đào tạo theo HTTC, chưa biết cách xây dựng kế hoạch học tập và đăng ký khối lượng học tập, chưa làm chủ được tiến độ học tập, chưa hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu… thì chưa thể tổ chức triển khai đào tạo theo HTTC.
Chuẩn bị đầy đủ các nguồn lực
Để tổ chức triển khai đào tạo theo HTTC cần có sự chuẩn bị đầy đủ các nguồn lực cần thiết từ cơ sở vật chất đến con người. Đội ngũ giảng viên của từng ngành/ chuyên ngành cần được chuẩn hóa, đáp ứng đủ về số lượng và chất lượng, đảm bảo yêu cầu được lựa chọn giảng viên của người học. Hình thành đội ngũ cố vấn học tập đủ năng lực, kinh nghiệm để đảm đương hết vai trò, trách nhiệm trong hỗ trợ người học.
Cơ sở vật chất và trang thiết bị giảng dạy, học tập các môn năng khiếu cần được chuẩn bị ở trạng thái sẵn sàng đáp ứng nhu cầu, kế hoạch học tập trực tiếp hoặc tự học, tự nghiên cứu của người học. Các phòng tập, nhà hát thể nghiệm, sân khấu biểu diễn, phòng chiếu phim, phòng dựng phim, xưởng phim thực hành, xưởng vẽ, máy quay, đạo cụ, phục trang, hoá trang... được mở cửa ngoài giờ hành chính và cuối tuần để sinh viên có thêm thời gian luyện tập chuyên môn.
Nguồn lực công nghệ thông tin như phần mềm quản lý, cổng thông tin sinh viên, thư viện… đáp ứng đủ nhu cầu đăng ký khối lượng học tập và cá nhân hóa việc quản lý kết quả học tập của người học. Thiết lập các nhóm học tập trực tuyến và trực tiếp cùng chuyên ngành, môn học… có giảng viên hướng dẫn để kịp thời trao đổi, thống nhất trong học tập, rèn luyện các môn năng khiếu.
Cập nhật, đổi mới chương trình đào tạo phù hợp với phương thức đào tạo theo HTTC
Chương trình đào tạo theo HTTC cần được tổ chức biên soạn theo hướng tiếp cận, phát huy, thúc đẩy năng lực của từng cá nhân. Việc chuyển đổi từ chương trình đào tạo theo niên chế sang tín chỉ lĩnh vực nghệ thuật cần được thực hiện nghiêm túc, khoa học trên cơ sở nghiên cứu tính đặc thù của từng ngành/ chuyên ngành, chứ không phải là sự chuyển đổi cơ học, từ số lượng đơn vị học trình sang số lượng tín chỉ.
Đào tạo nghệ thuật mang tính đặc thù rất cao, vì vậy, chương trình đào tạo theo HTTC phải được xây dựng trên cơ sở tôn trọng tính đặc thù, có sự linh hoạt, mềm dẻo, đảm bảo sự liên kết phù hợp giữa các môn học.
Trước mắt, có thể áp dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ đối với những môn kiến thức chung, kiến thức cơ bản, còn những môn chuyên ngành cần được nghiên cứu, xây dựng trên cơ sở yếu tố đặc thù, đảm bảo sự lôgic từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ cơ bản đến nâng cao, từ cơ sở ngành đến chuyên môn sâu… mới giúp người học hình thành kỹ năng, phát triển những tố chất, năng khiếu sẵn có, trở thành các tài năng nghệ thuật.
Đổi mới phương thức quản lý đào tạo
Các quy trình, thủ tục về quản lý học vụ được thực hiện trên nguyên tắc đảm bảo quyền lợi cho người học, ưu tiên tính đặc thù của từng ngành/ chuyên ngành để có cách thức tổ chức quản lý linh hoạt, mềm dẻo, khoa học, có độ mở cần thiết, giải quyết kịp thời, hợp lý những tình huống phát sinh. Căn cứ đặc thù đào tạo của từng ngành/ chuyên ngành nghệ thuật để xây dựng chương trình đào tạo, quy định số lượng tín chỉ, thời lượng học tập các môn lý thuyết và thực hành phù hợp với yêu cầu giảng dạy, học tập các môn năng khiếu.
Việc phân bổ sĩ số lớp học đối với các môn thực hành cần được tính toán phù hợp, đảm bảo không vượt quá số lượng người học mà giảng viên có thể hướng dẫn trong một giờ lên lớp. Đảm bảo đủ thời gian để người dạy có thể nắm bắt, hiểu rõ năng lực, thiên hướng sáng tạo của từng người học, có phương án định hướng, phát triển năng khiếu phù hợp, giúp người học có đủ thời gian để thẩm thấu, hiện thực hóa được yêu cầu của người dạy đối với từng bài học.
Đa dạng hóa HTTC tự chọn
Đa dạng hóa HTTC tự chọn, giúp người học có được sự lựa chọn phong phú, phù hợp với năng lực và nhu cầu của mỗi người là một trong những giá trị ưu việt, tiến bộ của phương thức đào tạo theo HTTC. Tuy nhiên, ở một số ngành/ chuyên ngành đào tạo năng khiếu, nhất là các ngành nghệ thuật đặc thù, số lượng giảng viên và sinh viên ít, khiến cơ sở đào tạo gặp khó khăn trong việc thiết kế các học phần tự chọn.
Một số ngành/ chuyên ngành lĩnh vực nghệ thuật chỉ có từ 1-2 giảng viên giảng dạy. Riêng các học phần bắt buộc, số lượng giảng viên cũng chưa thể đáp ứng yêu cầu lựa chọn của người học, nên học phần tự chọn càng không thể đa dạng như mong muốn. Hơn nữa, khi có nhiều học phần tự chọn, người học có thêm nhiều quyền lựa chọn, dẫn đến sự phân tán, không đủ sĩ số tối thiểu để mở lớp nên nhiều cơ sở đào tạo đã chủ động giới hạn các môn tự chọn của người học. Và như vậy, các học phần tự chọn chỉ tồn tại trên danh nghĩa mà thôi.
Để khắc phục tình trạng này, các cơ sở đào tạo lĩnh vực nghệ thuật có thể xây dựng cơ sở dữ liệu về các nhóm kiến thức liên ngành, ngành gần, ngành liên quan… để tạo sự liên thông, liên kết trong xây dựng các học phần tự chọn. Các khoa có ngành/ chuyên ngành gần với nhau có thể sử dụng tài nguyên của nhau, liên kết với nhau để hình thành hệ thống các học phần tự chọn, đảm bảo quyền lựa chọn môn học của người học.
Như vậy, để tiến hành đào tạo theo HTTC lĩnh vực nghệ thuật một cách thực sự hiệu quả, cần có sự thay đổi căn cơ từ nhận thức đến hành động của các cơ sở đào tạo. Theo đó, cần hình thành một cơ chế quản lý mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với đặc thù đào tạo trên tinh thần lấy người học làm trung tâm; chuẩn bị đầy đủ nguồn nhân lực, vật lực đáp ứng yêu cầu đào tạo; điều chỉnh mục tiêu, chương trình, phương pháp giảng dạy phù hợp với yêu cầu đào tạo theo HTTC và đặc thù đào tạo nghệ thuật. Hoàn thiện đội ngũ cố vấn học tập và ban hành Sổ tay sinh viên của mỗi trường. Việc phát huy vai trò của cố vấn học tập sẽ giúp giảm tình trạng nghỉ học không phép, không đạt tiến độ học tập dẫn đến việc bị thôi học ngoài ý muốn. Hệ thống Sổ tay sinh viên giúp cung cấp các thông tin cần thiết về học tập để người học nắm vững các nội quy, quy định; chủ động kế hoạch học tập của bản thân. Mặc dù còn tồn tại những hạn chế, nhưng về cơ bản, phương thức đào tạo theo HTTC vẫn là lựa chọn của nhiều nền giáo dục tiến bộ trên thế giới.
________________________
1. Trần Thanh Ái, Đào tạo theo hệ thống tín chỉ, các nguyên lý, thực trạng và giải pháp, tham luận tại Hội nghị toàn quốc tổ chức tại Trường Đại học Sài Gòn, tháng 5-2010, tr.42-53.
2, 3, 4, 5. Lâm Quang Thiệp, Về việc áp dụng học chế tín chỉ trên thế giới và ở Việt Nam, vnu.edu.vn, 2006.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ GD&ĐT, Quyết định số 2677/GD-ĐT ngày 03/12/1993 ban hành khung chương trình đào tạo, 1993.
2. Cary J.Trexler, Hệ thống tín chỉ tại các trường đại học Hoa Kỳ: Lịch sử phát triển, định nghĩa và cơ chếhoạt động, Tư liệu tham khảo Nghiên cứu giáo dục, số 6, 2008.
3. Nguyễn Tuấn Khanh, Rèn luyện kỹ năng cho sinh viên trong đào tạo theo tín chỉ, Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục, 2017.
4. Lê Viết Khuyến, Quá trình chuyển đổi quy trình đào tạo qua hệ tín chỉ trong các trường đại học và cao đẳng Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc về Đổi mới công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và quản lý giáo dục ở các trường cao đẳng, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, 2012.
5. Lê Viết Khuyến, Cải tiến việc quản lý đào tạo đại học theo học chế học phần, Giáo dục học đại học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000.
6. Lâm Quang Thiệp, Lê Viết Khuyến, Chương trình và quy trình đào tạo đại học, trích Một số vấn đề về giáo dục đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.
7. Cao Thị Châu Thủy, Quản lý quá trình đào tạo theo tín chỉ ở Đại học quốc gia TP.HCM, Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục, 2016.
PHẠM VIỆT HÀ
Nguồn: Tạp chí VHNT số 500, tháng 6-2022