Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người trong bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay

Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh, những giá trị văn hóa cốt lõi luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, bền bỉ, tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn giúp đất nước vượt qua nhiều gian lao, thử thách khắc nghiệt để vươn lên. Nhận thức được điều đó, Đảng, Nhà nước ta đã chú trọng phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa, con người Việt Nam trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội (ASXH), góp phần bảo đảm cuộc sống an toàn của nhân dân, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đất nước, “thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta”.

1. Nội dung

Quan niệm về đảm bảo ASXH ở Việt Nam

Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) (trong Công ước số 102 năm 1952 quy định các tiêu chuẩn tối thiểu về ASXH), ASXH (Social security) được hiểu là: “sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con” (1). Như vậy, về bản chất, ASXH thể hiện tính nhân đạo, nhân văn của Nhà nước và xã hội, đồng thời cũng là thước đo sự phát triển tiến bộ của một quốc gia.

Ở Việt Nam, bảo đảm ASXH được xác định là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Ðảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội. Theo Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1-6-2012, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, bảo đảm ASXH bao gồm 4 vấn đề: Đảm bảo việc làm, tạo thu nhập và giảm nghèo nhằm hỗ trợ người dân chủ động phòng ngừa các rủi ro trên thị trường lao động thông qua các chính sách đào tạo kỹ năng nghề nghiệp, tín dụng, tạo việc làm, thu nhập tối thiểu và giảm nghèo đơn chiều, đa chiều, bền vững; Bảo hiểm xã hội nhằm hỗ trợ người dân giảm thiểu rủi ro về sức khỏe khi ốm đau, tai nạn, tuổi già và bị thất nghiệp thông qua các hình thức, cơ chế bảo hiểm xã hội để bù đắp một phần thu nhập bị mất hoặc bị suy giảm; Trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhằm hỗ trợ đột xuất và hỗ trợ thường xuyên cho người dân khắc phục các rủi ro khó lường, vượt qua khả năng kiểm soát như mất mùa, đói nghèo; Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số - bao gồm y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin truyền thông, trợ giúp pháp lý (2).

Có thể thấy, quan niệm về ASXH ở Việt Nam cơ bản thống nhất với quan niệm về ASXH của Tổ chức Lao động thế giới, tuy nhiên có mở rộng hơn. ASXH ở Việt Nam hiện nay là mạng lưới các chương trình, hệ thống chính sách cụ thể của Nhà nước hoặc các tổ chức xã hội nhằm trợ giúp, hỗ trợ, bảo vệ các cá nhân và toàn xã hội, đặc biệt là các cá nhân gặp phải rủi ro hay khó khăn trong cuộc sống, bảo đảm mức sống tối thiểu, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng sống, từ đó, thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội. Do đó, bảo đảm ASXH chính là việc nhà nước, xã hội chắc chắn có đầy đủ những điều kiện cần thiết để bảo vệ, tạo lập một cuộc sống thực sự an toàn, hạnh phúc cho mỗi người dân.

Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong đảm bảo ASXH

Để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, “phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam” được xác định là nhiệm vụ trọng tâm và đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng.

Trên thực tế, “giá trị văn hóa”, “sức mạnh con người Việt Nam” có mối quan hệ biện chứng, gắn kết như một. Bởi lẽ, con người Việt Nam chính là chủ thể sáng tạo, thực hành, bảo vệ và thụ hưởng giá trị văn hóa Việt Nam và chính những giá trị văn hóa tốt đẹp ấy đã nuôi dưỡng, bồi đắp, hoàn thiện tâm hồn, trí tuệ, phẩm chất con người Việt Nam, hun đúc nên sức mạnh con người Việt Nam. Vì vậy, phát huy giá trị văn hóa Việt Nam cũng chính là phát huy sức mạnh con người Việt Nam, là việc làm cho những giá trị tốt đẹp của văn hóa, con người Việt Nam “tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm” trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo đó, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong đảm bảo ASXH chính là việc làm cho các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc thấm sâu vào mọi hoạt động ASXH nhằm đạt được mục tiêu “nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân” (3).

2. Kết quả phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong đảm bảo ASXH ở nước ta hiện nay

Giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam thể hiện trong đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về ASXH

ASXH có những nguyên tắc cơ bản là hướng đến toàn dân, đảm bảo sự đoàn kết, chia sẻ và tương trợ cộng đồng đối với các rủi ro trong đời sống, có tác dụng thúc đẩy sự đồng thuận, bình đẳng và công bằng trong xã hội. Những giá trị cốt lõi mang tính nguyên tắc của ASXH cũng chính là những giá trị văn hóa, truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Nam.

Lấy dân làm gốc: Tư tưởng “lấy dân làm gốc”, giúp dân, chăm lo cho đời sống của người dân luôn là tư tưởng quan trọng, chủ đạo, là quy chuẩn, là “sách lược ngàn năm” dựng nước và giữ nước của dân tộc. Lý Công Uẩn khẳng định việc dời đô đến Thăng Long để xây dựng nghiệp lớn là do “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân”, với mục đích quan trọng nhất là “làm cho dân được giàu của, nhiều người” (4). Điều này cũng được đúc kết thành một nguyên tắc cai quản đất nước của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước” (5). Tư tưởng yêu nước, thương dân, chăm lo đến đời sống và nguyện vọng của dân cũng chính là điều quán xuyến toàn bộ đường lối và mục đích chính trị của Nguyễn Trãi sau này: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Triết lý sâu sắc về nhân dân tiếp tục được vận dụng, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vì “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là tư tưởng cốt lõi trong mọi đường lối, chính sách xây dựng và phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước ta.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của Nhân dân…” (6). Với nhận thức như vậy, mọi quan điểm chỉ đạo thực hiện đảm bảo ASXH của Đảng ta đều xoay quanh mục tiêu vì cuộc sống an toàn và ổn định của mỗi người dân. Sự bổ sung, phát triển các quan điểm chỉ đạo về đảm bảo ASXH của Đảng ta qua các kỳ Đại hội đã thể hiện quyết tâm và những cam kết thực hiện ngày một tốt hơn nhiệm vụ đảm bảo cuộc sống an toàn, tốt đẹp cho người dân. Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng, “bảo đảm ASXH” được xác định là một trong các nhiệm vụ trọng yếu để phát triển bền vững đất nước: “bảo đảm ASXH trong từng bước và từng chính sách phát triển” (7). Đại hội XII đặt ra mục tiêu: “Tiếp tục hoàn thiện các chính sách ASXH phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả đến mọi người dân... Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền ASXH cho công dân” (8). Các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu” (9). Từ đó, Đảng đã chỉ đạo cụ thể những nhiệm vụ nhằm đảm bảo ASXH như: phát triển hệ thống ASXH toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân; cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng, đổi mới chính sách bảo hiểm thất nghiệp, giải quyết việc làm cho lao động khu vực phi chính thức; thực hiện các biện pháp chính sách về dinh dưỡng, an toàn thực phẩm, bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe và tầm vóc người Việt Nam...

Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo của Đảng, một hệ thống các văn bản, chính sách của Nhà nước được xây dựng, củng cố và ngày càng hoàn thiện (10). Đặc biệt, đảm bảo ASXH đã trở thành quyền hiến định tại điều 34 của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: “Công dân có quyền được đảm bảo ASXH”. Công dân phải được bảo đảm một cuộc sống an toàn bởi mạng lưới ASXH ngày một đầy đủ và có độ bao phủ rộng.

Công bằng, bình đẳng: là những giá trị gắn với truyền thống dân chủ làng xã, là cơ sở của sự đoàn kết, gắn bó cộng đồng đã tồn tại trong suốt lịch sử dân tộc. ASXH, với tư cách là một quyền cơ bản của con người, là tiêu chí quan trọng phản ánh trình độ phát triển của một quốc gia phải được bảo đảm trên nguyên tắc công bằng, bình đẳng. Thông qua hệ thống ASXH, Nhà nước thực hiện phân phối lại thu nhập, dịch vụ cho người nghèo và những nhóm xã hội yếu thế, dễ bị tổn thương, góp phần ổn định cuộc sống cho họ, giảm nghèo, từng bước thu hẹp bất bình đẳng xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định phương hướng chủ đạo của chính sách xã hội ở Việt Nam: Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách. Trong định hướng nhiệm vụ bảo đảm ASXH của Đại hội XII, tiêu chí công bằng, bình đẳng là một trong những nguyên tắc cơ bản để xây dựng các chính sách: “Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng”, “tiếp tục bảo đảm công bằng, giảm chênh lệch mới trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân giữa các địa bàn, các nhóm đối tượng… bảo đảm cơ hội tiếp cận bình đẳng về chăm sóc sức khỏe cho người dân”… (11). Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển vì con người, tạo điều kiện cho mọi người, nhất là trẻ em, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, người di cư hòa nhập, tiếp cận bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản” (12), “đổi mới thực chất cách tiếp cận trong giảm nghèo bằng các chính sách hỗ trợ có điều kiện, giảm hỗ trợ cho không, khơi dậy ý chí chủ động vươn lên tự thoát nghèo; hạn chế bất bình đẳng xã hội” (13). Những giá trị này cũng được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013, Điều 59: Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống ASXH, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác. Trên cơ sở đó, nhiều văn bản pháp luật được xây dựng, sửa đổi, bổ sung để thể hiện ngày càng đầy đủ hơn về nhận thức và tạo khuôn khổ pháp lý cho việc giải quyết các vấn đề liên quan tới bình đẳng, công bằng trong đảm bảo ASXH.

Đoàn kết, nhân ái, sẻ chia: Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII đã nhấn mạnh: tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý… chính là những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 cũng khẳng định: Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam. Trong các văn bản chỉ đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về ASXH, những giá trị, chuẩn mực này đã trở thành nguyên tắc thực hiện: “Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và truyền thống tốt đẹp, tương thân, tương ái của dân tộc ta. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời huy động sự tham gia mạnh mẽ của toàn xã hội” (14). Đoàn kết, nhân ái, sẻ chia là những giá trị tạo nên sức mạnh của cộng đồng, tạo nên sự đồng thuận xã hội, nó đặc biệt có ý nghĩa trong những cảnh huống bất thường của cuộc sống. Vì thế, truyền thống “đoàn kết, nhân ái, sẻ chia” được thể hiện rõ nét trong các chính sách nhằm khắc phục rủi ro ở nước ta như chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên (chính sách trợ giúp người nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khăn…), trợ giúp xã hội đột xuất (thiên tai, dịch bệnh, tai nạn…).

Những kết quả đạt được

Giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong bảo đảm ASXH bước đầu được phát huy, góp phần thực hiện các mục tiêu ASXH, thể hiện bản chất nhân đạo, nhân văn của chính sách ASXH ở nước ta.

 Thứ nhất, ASXH góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, “chỉ số hạnh phúc” của người dân. Người dân được bảo đảm quyền được ăn no, mặc ấm, quyền được an toàn trong xã hội thông qua những thành tựu của các chính sách việc làm, giảm nghèo và dịch vụ xã hội cơ bản. Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tỷ lệ hộ sống trong nhà kiên cố hoặc bán kiên cố trên toàn quốc là 93,1%. Người dân được chăm sóc sức khỏe thể chất ngày một tốt hơn. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73, cao hơn trung bình khu vực và trung bình thế giới, trong đó 87% dân số có bảo hiểm y tế (15). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 năm 1990 lên 76,3 năm 2019, cao nhất giữa các quốc gia trong khu vực có mức thu nhập tương đương (16)… Người dân được đảm bảo quyền văn hóa, xã hội với các thành tựu của phát triển văn hóa, sự phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân. Luật Giáo dục (2019) xác định: Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Theo kết quả Tổng điều tra năm 2019, tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên là 95,8%, tăng 1,8 điểm phần trăm so với năm 2009; số người có trình độ học vấn từ THPT trở lên của cả nước chiếm 36,5% tổng dân số từ 15 tuổi trở lên, tăng gần hai lần so với năm 2009 (20,8%). Tỷ lệ dân số có trình độ đại học trở lên tăng mạnh nhất, gấp hơn hai lần so với năm 2009 (4,4%). Điều này cho thấy 10 năm qua, giáo dục đại học và sau đại học của Việt Nam đã có những bước chuyển mình, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước (17).

Thứ hai, ASXH góp phần khắc phục rủi ro, bảo đảm an toàn cho cuộc sống của người dân. Việc cứu trợ cho người dân trong các tình huống khó khăn đã có sự đoàn kết, chung tay vào công cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, “nhà nước và nhân dân cùng làm”. Với phương châm “phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế” (18), ngoài các chính sách trợ giúp của nhà nước được thực hiện xuyên suốt từ trung ương đến địa phương, các phong trào thiện nguyện, quỹ bảo trợ, cứu trợ trong xã hội được phát động và thực hiện sôi nổi, hiệu quả với tinh thần “Lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều”, thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”... Trong thời gian phòng, chống đại dịch COVID-19 vừa qua, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc đã được khơi dậy và phát huy trong cộng đồng. Nhờ sự huy động kịp thời sức người, sức của, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự đoàn kết, đồng lòng của toàn dân và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, Việt Nam đã khống chế thành công ba đợt dịch bùng phát trong cộng đồng và đang thích ứng linh hoạt với đợt dịch bùng phát mới, được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao trong công tác phòng, chống dịch COVID-19.

Một số hạn chế, thách thức

Bên cạnh những thành tựu quan trọng, việc phát huy các giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong đảm bảo ASXH những năm vừa qua vẫn còn những mặt hạn chế và khó khăn nhất định:

Nhận thức về phát huy giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam trong đảm bảo ASXH của một số tổ chức, cơ quan quản lý, một bộ phận cán bộ đảng viên, nhân dân chưa đầy đủ nên việc xây dựng và vận hành hệ thống ASXH còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa hiệu quả.

Việc cụ thể hóa, hiện thực hóa các giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về đảm bảo ASXH trong thực tế còn chậm, lúng túng. Chẳng hạn, “công bằng, bình đẳng” là những giá trị văn hóa tốt đẹp và cũng là mục tiêu quan trọng của ASXH, nhưng trong tổ chức thực hiện chưa đạt được những kết quả mong muốn. Thực tế cho thấy, sự chênh lệch giàu nghèo còn lớn; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn khá lớn.

Các giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam được vận dụng, tích hợp trong thể chế ASXH còn mỏng, chưa phát huy hết tác dụng, ý nghĩa. Hầu hết các giá trị, chuẩn mực văn hóa, con người thể hiện trong chính sách ASXH mới dừng ở tính phổ quát, định hướng chung, chưa được triển khai thành hệ giá trị cụ thể, phù hợp cho từng cấu phần trong hệ thống ASXH.

3. Kết luận

Hiện nay, những vấn đề rủi ro trong cuộc sống con người như tai nạn, đau ốm, dịch bệnh, thiên tai… ngày càng trở nên khó lường, khó kiểm soát, thách thức sự bền vững của hệ thống ASXH. Bên cạnh đó, xu thế già hóa dân số ở nước ta cũng đang và sẽ đặt ra nhiều khó khăn, áp lực cho hệ thống y tế, bảo hiểm xã hội… Do vậy, ngoài trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, rất cần sự chung tay góp sức của toàn xã hội, của mỗi người dân trong các chương trình, chính sách an sinh cụ thể. Điều này cũng đặt ra yêu cầu phải phát huy các giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam, với tư cách là sức mạnh nội sinh quan trọng trong đảm bảo ASXH một cách thực chất hơn.

____________

1. Mạc Văn Tiến, An sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2005, tr.12.

2, 3, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1-6-2012, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.

4. Đào Phương Bình, Thơ văn Lý - Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, tr.229-230.

5. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1972, tr.88-89.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.311.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.227.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.137.

9, 12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.27, 264, 265.

10. Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Lao động, Luật Việc làm, Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật Trẻ em… Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030.

11, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.136-138, 137.

15. Tổng quan về Việt Nam, worldbank.org, cập nhật 14-4-2022.

16, 17. Tổng điều tra dân số và nhà ở 2019, dashboard.gso.gov.vn.

TS LƯƠNG HUYỀN THANH

Nguồn: Tạp chí VHNT số 497, tháng 5-2022

;