BIỂN VÀ NHỮNG BIẾN HÌNH KÝ HIỆU TRONG THƠ

Là một quốc gia thuộc bán đảo Đông Dương nằm bên bờ Thái Bình Dương, Việt Nam, theo cách nói gần đây là một “cường quốc biển” với chỉ số chiều dài hơn 3000km. Trên dải đất ba ngàn cây số biển từ Trà Cổ - Móng Cái, Quảng Ninh đến Hà Tiên ấy, cộng đồng người Việt đã tồn tại, sinh trưởng cùng thủy triều lên xuống, mưa nắng ngày đêm, có lúc thì trời yên biển lặng, nhưng lúc khác lại sóng lớn gió to… Song song với chỉ số chiều dài biển Đông là dải đất duyên hải trải dài Bắc - Trung - Nam. Có thể phác thảo dáng hình đất nước Việt Nam qua câu thơ của Thanh Thảo: “Tổ quốc kiên trì nhoài ra phía biển”.


Thực thể biển là một không gian vô cùng rộng lớn, nơi hình thành các cơ tầng, lưu giữ trầm tích và nuôi dưỡng các nền văn hóa Việt cổ, là “đường dẫn”, kênh giao tiếp cực lớn để nối liền với thế giới. Nhưng đồng thời, và quan trọng nhất, đó là phần lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc; khẳng định, khắc ghi chủ quyền dân tộc. Đặc biệt là ở thời điểm hiện tại, khi tình hình biển Đông đang “dậy sóng” và “nóng” lên từng ngày, đất nước Việt Nam đau thương - “Tổ quốc nơi đầu sóng” - một lần nữa lại cần phải được “nhìn từ biển”.

Trong bức tranh toàn cảnh của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng, biển đảo là một dòng chảy liên tục, xuyên suốt từ dân gian sang trung đại tới cận, hiện đại gồm nhiều thể loại như thơ, phú, ký, truyện ngắn, tiểu thuyết… Mỗi giai đoạn, mỗi thể loại sẽ có những kiểu sáng tác và hệ hình thi pháp riêng nhưng chung qui đều hướng tới việc khám phá đời sống con người cùng những đa dạng về sinh thái học: cảnh sắc thiên nhiên, chân dung tâm hồn, phong tục tập quán, nguyên tắc và văn hóa ứng xử trước biển… Biển đảo, do vậy, là một đề tài vừa mang tính duy mỹ, vừa có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.Đây thực sự là một khu vực lớn trong địa lý văn chương Việt.

Riêng đối với thơ, biển là cả một “trường tương tư” bao la, rộng mở. Đại dương muôn đời vẫn mênh mang sóng nước, vẫn là bình minh, hoàng hôn, trời xanh, biển biếc…, nhưng thi nhân bao đời đã truyền sức sống và thức dậy rất nhiều mới mẻ cho những điều xưa cũ ấy. Chính vì vậy, trong sinh thể thơ ca Việt, biển là một “cấu trúc động” bởi luôn có những biến hình ký hiệu làm say mê nhiều thế hệ bạn đọc.

Biển trước hết là một không gian trữ tình gắn với những câu chuyện tình yêu. Từ xa xưa, trai gái thương mến nhau thường chọn biển làm đối tượng để gửi gắm tình cảm, ký thác tâm tư, là không gian tình tự để trao gửi, đong đo cảm xúc lứa đôi theo kiểu “thề non hẹn biển”. Khi tương tư, trai gái trong ca dao thường lấy biển như một bối cảnh rộng lớn để diễn tả nỗi niềm:

- Tìm em như thể tìm chim

Chim ăn bể bắc, đi tìm bể đông

- Ngó hoài ra tận biển đông

Thấy mây thấy nước sao không thấy chàng

 (Ca dao)

Những phương thức ví von, ẩn dụ được vận dụng hiệu quả, linh hoạt nhằm biểu đạt ước mong về một tình yêu sâu sắc, bền chặt. Chủ thể xưng anh dù có lúc bóng gió xa xôi nhưng chủ ý giao tiếp vẫn rất mực coi trọng sự thủy chung - một phẩm giá đưa đến cái kết thúc tốt đẹp và hạnh phúc trọn vẹn cho mọi cuộc tình. Lời thơ trở nên ngọt ngào với những giả thiết có sức cảm hóa, mang lại niềm tin:

Chừng nào cho sóng bỏ gành

Củ lao bỏ biển, anh mới đành bỏ em

 (Ca dao)

Hòa nhập vào khung cảnh biển có sóng, gió, bão, gành, “thân phận tình yêu”, theo đó, cũng bộc lộ được nhiều cung bậc, nỗi niềm, những tâm trạng buồn vui như một lẽ thường tình…

Sang thời kỳ hiện đại, một trong những giá trị tinh thần nổi bật mà biển mang đến cho thi ca nhạc hoạ vẫn là nguồn cảm xúc lai láng về tình yêu. Sự biến hình ký hiệu từ không gian vật thể sang không gian tâm tưởng vốn đã thi vị, nên thơ càng trở nên lung linh, kỳ ảo. Độ nông sâu của lòng biển, tiếng âm vang của từng con sóng vỗ bờ, vị mặn mòi của muối, sắc xanh trong như hòa lẫn vào nhau giữa nước và trời… đã trở thành những tín hiệu tình yêu trong thơ. Về phương diện này, thơ hiện đại rất gần gũi với thi pháp ca dao. Vì lẽ đó, chủ đề tình yêu trong ca dao và thơ hiện đại gần gũi với tâm thế tiếp nhận và có tính dân chủ cao.

Đến với biển, người thơ sẽ dễ dàng tìm được mối đồng cảm, đồng điệu giữa tâm trạng và cảnh quan.Nhà thơ Xuân Diệu sau 1945 dù “nhan sắc” thơ không còn độ “rực rỡ xuân thì” nhưng danh hiệu “ông hoàng thơ tình”, “thi sĩ của tình yêu” vẫn chưa có người thay thế.Một trong những bài thơ tình nổi tiếng ông viết giai đoạn này là Biển. Không còn những thóang cô đơn rợn ngợp của thời “gửi hương cho gió”, tiếng nói tình yêu trong thơ ông giờ đây khoẻ khoắn hơn, tư thế trữ tình cũng mạnh mẽ hơn:

Anh không xứng là biển xanh

 Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng

 Bờ cát dài phẳng lặng

 Soi ánh nắng pha lê…

 Bờ đẹp đẽ cát vàng

 Thoai thoải hàng thông đứng

 Như lặng lẽ mơ màng

 Suốt ngàn năm bên sóng…

(Biển - Xuân Diệu)

Cùng thế hệ với Xuân Diệu, nhà thơ mang “phong cách suy tưởng” Chế Lan Viên cũng nhờ biển nói hộ những vui buồn, nhung nhớ, cách trở của tình yêu: “Anh xa cách em như đất liền xa cách bể/ Nửa đêm sâu nằm lắng sóng phương em/ Em thân thuộc sao thành xa lạ thế/ Sắp gặp em rồi sóng lại đẩy xa thêm” (Chùm nhỏ thơ yêu - Chế Lan Viên). Chính niềm ước mong hạnh phúc đã “mềm hóa” kiểu tư duy thiên về lý tính sáng suốt của nhà thơ, khiến liên tưởng thơ đi về miền cảm xúc:

Cái rét đầu mùa anh rét xa em

Đêm dài lạnh chăn chia làm hai nửa

Nửa đắp cho em ở vùng sóng bể

 Nửa đắp cho mình ở phía không em

 (Rét đầu mùa nhớ người đi phía biển - Chế Lan Viên)

Với Xuân Quỳnh, biển vừa “dữ dội” vừa “dịu êm”, vừa “ồn ào” vừa “lặng lẽ”… Thiên tính và lối viết nữ ở Xuân Quỳnh được chị gửi gắm, ký thác một cách đầy tin cậy vào muôn ngàn lớp sóng giữa đại dương, vào con thuyền và những cánh buồm…; từ đó, hiểu mình hơn qua mối rung động vừa êm ái, vừa mãnh liệt của một khát vọng tình yêu trẻ trung, đầy màu sắc “nữ quyền”:

Những ngày không gặp nhau

 Biển bạc đầu thương nhớ

 Những ngày không gặp nhau

 Lòng thuyền đau - rạn vỡ

 Nếu từ giã thuyền rồi

 Biển chỉ còn sóng gió

 Nếu phải xa cách anh

 Em chỉ còn bão tố

 (Thuyền và biển - Xuân Quỳnh)

Ở tư thế trữ tình “nam quyền” cậy mình “dài rộng”, song chỉ khi đối diện với biển, Hữu Thỉnh mới cảm nhận sâu sắc hơn sự trống trải, cô đơn vì thiếu vắng nửa kia của tình yêu:

Anh xa em

Trăng cũng lẻ

Mặt trời cũng lẻ

 Biển vẫn cậy mình dài rộng thế

 Vắng cánh buồm một chút

đã cô đơn…

(Thư viết ở biển - Hữu Thỉnh)

“Thần đồng thơ” Trần Đăng Khoa sau một thời gian vắng bóng đã trở lại khá ấn tượng với đời sống thơ ca trong “vai giao tiếp” là người “Lính đảo hát tình ca trên biển”. Những năm tháng tắm mình vào cảnh sắc biển đảo, mang theo tâm tư và nhịp sống đồng đội, tiếng nói tình yêu trong thơ Trần Đăng Khoa là sự cộng hưởng cảm xúc về “biển” và “em”, giữa tâm sự riêng và lý tưởng chung:

Ngày mai, ngày mai, khi thành phố lên đèn

Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc

 Thăm thẳm nước trời nhưng anh không cô độc

 Biển một bên và em một bên

 (Thơ tình người lính biển - Trần Đăng Khoa)

Trong tiến trình thơ hiện đại về đề tài chiến tranh cách mạng, dưới tầm ảnh hưởng và sự chi phối của cảm hứng anh hùng ca, biển gắn với vận mệnh dân tộc và hiện diện như một không gian sử thi; được đánh dấu bởi sự ra đời của một loạt các tác phẩm trường ca viết về chiến tranh như Những người đi tới biển - Thanh Thảo, Đường tới thành phố, Trường ca biển - Hữu Thỉnh, Sóng Côn đảo - Anh Ngọc… Ngay trong trường ca viết về con người và núi rừng Tây Nguyên Bài ca chim chơ raocủa Thu Bồn, biển vẫn luôn ẩn hiện qua hình bóng người vợ biển “quanh năm chài lưới”, “bàn tay có nắng mặt trời” và “có tâm hồn sóng biển”; qua những đồng hiện giữa quá khứ và hiện tại:

Ăn trái gấm nhớ trái dừa tha thiết

 Uống ngụm nước suối trong nhớ biển biếc bao la

 Những đêm mưa rừng sấm động

 Nhớ làm sao tiếng sóng vỗ quanh nhà

                                                (Bài ca chim chơ rao - Thu Bồn)

Dải đất miền Trung “núi choài ra biển” là một “cơ chế địa – văn hóa” đặc trưng. Bản sắc riêng của một miền thơ không được tạo nên bởi những tương phản, đối lập mà là sự hòa trộn, thống nhất giữa rừng và biển:

Đây không biển thì rừng làm biển cả

 Mặt biển xanh với cồn sóng ngút trời

                                       (Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)

Hình ảnh “những người đi tới biển” trong trường ca cùng tên của nhà thơ Thanh Thảo là một sự khái quát về hành trình cuộc chiến tranh chống Mỹ đến ngày toàn thắng. Người lính sống với rừng, thấm thía nỗi khổ bao đời của đất và người Tây Nguyên: “Anh đã đi qua heo hút những cánh rừng/ Trẻ em khát muối hơn chúng mình khát nước…/ Với những người đói muối biển chỉ là muối trắng/ Họ liếm vành môi khô nhạt đắng/ Lưỡi khát thèm tưởng uống cạn một đại dương” (Những người đi tới biển– Thanh Thảo). Chính vì vậy, khát vọng biển, hướng về biển là đồng nghĩa với giấc mơ chiến thắng.Nếu “ám ảnh muối” đối với đồng bào Thượng là một khía cạnh của “vô thức tộc người” thì “ám ảnh biển” đối với người lính là “ý thức thế hệ” về truyền thống lịch sử, về sức mạnh lấn biển mở mang bờ cõi của cha ông:

Nơi trộn lẫn mặt trời muối mặn đời ta

 Tổ quốc kiên trì nhoài ra phía biển

 Ôm những quần đảo trong vòng tay thương mến

Mắt dõi nhìn hút cánh hải âu bay

                                       (Những người đi tới biển – Thanh Thảo)

Cùng chung tư thế “băng mình” ra biển, bằng âm hưởng của liên khúc trữ tình, qua hình ảnh năm cánh quân từ những cánh rừng tràn về Sài Gòn, tạo nên một “thành phố đầy áo trận”; và từ “viên ngọc viễn đông” những đoàn quân lại ào ạt đổ về biển Thái Bình Dương, kết thúc cuộc chiến tranh chống Mỹ bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với mốc son 30 - 4 - 1975, Hữu Thỉnh đã nhân lên niềm vui chiến thắng qua phép cộng hưởng giữa nhịp điệu trong trái tim người lính với những chuyển động của đất trời, giữa nhịp điệu ngân nga trong tâm hồn với khúc khải hoàn của đại dương:

Biển đang lắc những hồi chuông đoàn tụ

 Phù sa nào mát rượi súng và xe…

 Chiến sĩ vừa đi vừa hát

 Cành ngụy trang qua gió thổi ba miền

(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)

Trường ca biển là sự tiếp nối, đi xa, đi sâu hơn vào cảm hứng “sử thithế sự biển”.Đặc biệt là những vấn đề xoay quanh thềm lục địa biển Đông. Ngay trong những giờ khắc tột cùng hân hoan, khép lại một chặng đường vẻ vang của dân tộc, Hữu Thỉnh đã có những dự cảm về sự phức tạp đang dấy lên như một hiện tượng “áp thấp” cách xa đất liền nhưng bất an. Và vùng áp thấp ấy đã dâng lên thành bão – một cơn bão biển dữ dội:

Bão vò cây gào rít điên cuồng

 Tóc của bão là lá cây rách tướp

Tay của bão là sóng thần rợn ngợp

 Cả đất trời say sóng ở Trường Sa

                                       (Trường ca biển– Hữu Thỉnh)

Với triết lý: “Sống với nước hãy bắt đầu từ nước”, “Đất đi qua biển thì mau/ Người đi qua nỗi khổ đau thì dài”, những thông điệp được phát đi từ Trường ca biển của Hữu Thỉnh là sự khẳng định tư cách và chủ quyền biển đảo của dân tộc. Ở đâu có “dấu chân người lính”, ở đó là quê hương xứ sở:

Đảo hiện ra thử thách bạc màu

Bàn chân lính đánh vần trên đất đai tổ quốc

và:

Biển có đảo biển đỡ lặp lại mình

 Đảo có lính cát non thành tổ quôc

(Trường ca biển– Hữu Thỉnh)

Có thể thấy, sự kết hợp nhịp nhàng giữa âm điệu hào hùng của cảm hứng sử thi với chiều sâu thế sự lịch sử, tính đa thanh về giọng điệu và sắc thái triết luận, khả năng dự báo đã tạo nên sắc diện nổi bật và mô hình không gian “bán sử thi” cho tập trường ca về biển của Hữu Thỉnh.

Năm 1986 đánh dấu một bước đổi mới toàn diện trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ thuật.Đặc biệt đối với thơ ca, đó là sự gia tăng tinh thần phản biện, khuynh hướng đối thoại đa chiều và ý thức phản tỉnh, tự nhận thức.Tuy vẫn mang đặc tính của loại hình diễn ngôn trữ tình để ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, tình yêu lứa đôi và tình cảm quê hương đất nước, nhưng hệ biểu tượng biển trong thơ ca giai đoạn này đã được mở rộng và khơi sâu thêm những tầng nghĩa mới. Cùng với tính chất luận đề riết róng được đề cập theo tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật” qua một số tác phẩm văn xuôi tiêu biểu như Đứng trước biển, Cù lao Tràm (Nguyễn Mạnh Tuấn), biển đã trở thành không gian thế sự, phản chiếu tư tưởng thời đại và thăng hoa theo mạch cảm hứng của nhà thơ. Cũng cần nói thêm là yếu tố thế sự trước biển đã từng tồn tại lâu đời trong những áng thơ của Trần Nguyên Đán, Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… Sang thời kỳ hiện đại, những câu thơ kiểu:

Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận

Chẳng biết xa lòng có những ai

(Vọng hải đài Phạm Hầu)

cũng gợi lên tư thế và tâm cảm của thế hệ thi nhân tiền chiến. Sau 1945, Xuân Diệu cũng đã để lại hai câu thơ bất hủ với độ triết lý sâu thẳm:

Trái đất – ba phần tư nước mắt

 Đi như giọt lệ giữa không trung

 (Lệ- Xuân Diệu)

Tuy nhiên, để trở thành tâm thế thi ca mang dấu ấn chung thì phải đến những thập niên cuối TK XX, khi xuất hiện xu hướng “nhìn lại và suy ngẫm”. Trước thềm đổi mới, ngay từ trong mạch cảm hứng sử thi, Thanh Thảo đã viết:

Những dòng sông băng qua những vết thương

 Về với biển đâu phải tìm yên nghỉ

 Tới cửa sông là bắt đầu sóng gió

 Những cây giá xoay trần ngấm nước giữ phù sa

(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)

Cũng như sau này, ông đã tìm được “triết lý biển” bằng con mắt từng trải: “Ngay khi mặt biển im lặng đừng nghĩ dưới đáy sâu không có những đợt sóng ngầm” (Trò chuyện với nhân vật của mình – Thanh Thảo).

Vượt qua “tầm đón đợi” quen thuộc: âm điệu du dương của sóng biển là tiếng hát trái tim ngập tràn hạnh phúc, sự bao la bất tận của biển là cảm xúc vô hồi vô hạn của tình yêu, vị mặn mòi của biển là tấm lòng thủy chung, son sắt…; thơ thời kỳ đổi mới và đương đại lại soi vào biển để nhận diện và thấm thía hơn những mặt trái, những khổ đau mà tình yêu mang đến ngoài sự mong đợi của con người. Lâm Thị Mỹ Dạ đã rất cô đơn khi “một mình chạm ly với biển” và nhận được từ biển một vết thương lòng sâu xóay. Hữu Thỉnh trong giấc mơ tìm kiếm tri âm, tri kỷ lại phải đón nhận sự “phản bội ngọt ngào”:

Vừa dào dạt cùng tôi

Biển đã thành sương khói

 (Vừa trong mơ cùng tôi – Hữu Thỉnh)

Có thể ví biển như một tấm gương tự vấn khổng lồ mở ra muôn vàn đối thoại. Không chỉ trong lãnh địa tình yêu riêng tư mà là nỗi niềm nhân thế, là những mặn ngọt của cuộc đời:

Bao nước mắt trăm sông dồn góp lại

Mặn đến triệu năm không gạn lấy chút ngọt lành

Vậy mà biển chiếm đến ba phần tư trái đất

Chỉ làm chi hay chỉ để mênh mông?

Nếu không có con người tặng cho tư cách biển

Thì dù đại dương vẫn mãi mãi thiếu linh hồn

 (Phản biện biển – Hồ Thế Hà)

Trong sinh thể thi ca Việt, biển đảo là một nguồn cảm hứng lớn, một dòng chảy mạnh mẽ, liên tục qua các thời kỳ từ sơ khai đến đương đại, chưa bao giờ bị thu hẹp, đứt đoạn hoặc bị thay thế. Hệ biểu tượng và những biến hình ký hiệu về biển trong thơ là sự khúc xạ diện mạo tư tưởng và “đặc điểm diễn ngôn” của mỗi chặng đường phát triển. Đây là mảng văn chương chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, sinh thái, nhân văn; là hành trang và ký ức dân tộc…; là tấm “căn cước văn hóa ” của người Việt để đối thoại với các nền văn minh, khẳng định chủ quyền trước các cộng đồng trong khu vực và trên toàn cầu (1).

Hà Nội, 28 - 8 - 2015

______________

1. Đây là một phần kết quả nghiên cứu từ đề tài: Văn học Việt Nam viết về biển đảo và duyên hải (Giai đoạn 1900-2000) mang mã số QG. 14. 30 do Trường Đại học Quốc gia Hà Nội tài trợ.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 378, tháng 12-2015

Tác giả : LÝ HOÀI THU

;