Từng bước xây dựng Hưng Yên trở thành một trung tâm di sản văn hóa đặc sắc tại khu vực đồng bằng sông Hồng và cả nước

LTS: Ngày 12-11- 2021, tại Quyết định số 1909/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030. Đây là chiến lược quan trọng, định hướng cho công cuộc “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam toàn diện, phù hợp với xu thế thời đại, yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những tác động to lớn với kinh tế, xã hội và con người của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng...”. Kể từ số này, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật mở chuyên mục “Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 “ với mong muốn nhận được những bài viết nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm và tổng kết thực tiễn, các bài viết chuyên sâu phản ánh những vấn đề đặt ra trong quá trình triển khai chiến lược; những mô hình, cách làm hay; những cá nhân tiêu biểu, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm; những vướng mắc, bất cập về thể chế, cơ chế chính sách, những điểm nghẽn cần tháo gỡ, giải quyết... Bài viết xin gửi thư điện tử theo địa chỉ: [email protected]. Trong bài ghi rõ, gửi cho chuyên mục “Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030” (VHNT).

Quan điểm của Đảng ta về văn hóa

Trước cuộc sống hiện đại, nhu cầu trở về cội nguồn, tìm hiểu lịch sử dân tộc đã và đang trở thành một nhu cầu không thể thiếu của mỗi người. Có nhiều đối tượng khác nhau để tiếp cận với lịch sử dân tộc, trong đó di sản văn hóa, di tích lịch sử văn hóa là một trong những đối tượng được quan tâm và có sức thu hút nhất, bởi di sản là bằng chứng chân thực, cụ thể, sinh động nhất về đặc điểm, cội nguồn văn hóa của mỗi dân tộc, nơi chứa đựng những giá trị truyền thống tốt đẹp, kỹ năng, kỹ xảo về trí tuệ của con người. Di tích lịch sử, di sản văn hóa là sợi dây kết nối quá khứ với hiện tại, tương lai. Các di sản văn hóa chính là những thông điệp về lịch sử mà thế hệ trước trao truyền cho thế hệ sau. Tiếp nối dòng chảy, các thế hệ đi sau kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa của cha ông để sáng tạo ra giá trị văn hóa mới.

Việt Nam là quốc gia có truyền thống văn hiến lâu đời. Quá trình dựng nước và giữ nước, các thế hệ cha ông đã lưu lại kho tàng di sản văn hóa vô cùng đa dạng và phong phú. Văn hóa là đời sống tinh thần, thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của cuộc sống và việc bảo tồn các di sản văn hóa rất được coi trọng nhằm thúc đẩy sự nghiệp cách mạng phát triển, tạo nền tảng tinh thần cho xã hội, sức mạnh đoàn kết toàn dân, niềm tự hào về truyền thống, sức mạnh của quốc gia. Do đó, qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta tiếp tục phát triển, bổ sung hoàn thiện các quan điểm để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ngày thêm phong phú, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trở thành lực lượng lãnh đạo đất nước, trong các nghị quyết và cương lĩnh của Đảng đều nhất quán chủ trương bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đặc biệt, từ tháng 12-1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Và cũng chính từ đó, Đảng không chỉ đổi mới tư duy trong kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại mà trong văn hóa cũng có sự đổi mới.

Quan điểm lớn bao trùm nhận thức mới của Đảng về văn hóa được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VII khi xác định một trong 6 đặc trưng chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là: “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (1). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định đặc trưng nêu trên của chủ nghĩa xã hội, đồng thời xác định phương hướng “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu hiện phản văn hóa. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 7-1998) đã ban hành nghị quyết chuyên đề về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, khẳng định: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể” (2).

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định 1 trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước” (3).

Trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát lại và nhấn mạnh thêm quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao” (4).

Những quan điểm trên của Đảng về văn hóa và bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa, di tích lịch sử văn hóa, nhất là trong 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn là cơ sở để các cơ quan nhà nước ban hành và từng bước hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý văn hóa và di sản văn hóa, có tác dụng to lớn trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, văn bản về văn hóa, trong đó có các luật, chiến lược... Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 đã khẳng định: “Hoàn thành việc lập nhiệm vụ quy hoạch và quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích. Tập trung đầu tư bảo quản, tu bổ, phục hồi các di tích quốc gia đặc biệt, di sản thế giới, di tích lịch sử - văn hóa có giá trị tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch” (5).

Hưng Yên - vùng đất văn hiến, giàu truyền thống văn hóa, lịch sử

Tỉnh Hưng Yên nằm bên tả ngạn sông Hồng thuộc trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, được phù sa sông Hồng và sông Luộc bồi đắp nên đất đai phì nhiêu, màu mỡ. Ngay từ buổi bình minh dựng nước, vùng đất Hưng Yên đã có con người cư trú. Các di tích mộ quách, mộ cũi khai quật được tại xã An Viên, huyện Tiên Lữ; mộ thuyền, trống đồng tại thôn Động Xá, thị trấn Lương Bằng, huyện Kim Động; trống đồng tại xã Cửu Cao, huyện Văn Giang và các huyền tích, huyền sử về Chử Đồng Tử - Tiên Dung trải khắp làng, xã tại huyện Khoái Châu, Văn Giang đã minh chứng điều đó. Vào TK XVI - XVIII, thương cảng Phố Hiến được hình thành và phát triển, tàu thuyền bốn phương từ Xiêm, Mã Lai, Manila ở Đông Nam Á; Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp ở châu Âu… đến buôn bán, trao đổi hàng hóa và lập nên các thương điếm. Phố Hiến lúc này sầm uất, phồn thịnh, trở thành một đô thị cảng sông lớn nhất Đàng Ngoài. Kinh thành Thăng Long khi ấy có 36 phường, thì Phố Hiến có 25 phường, trong đó có tới 8 phường thủ công. Sự xuất hiện của các phường thủ công đã thể hiện tính hoàn chỉnh của một đô thị trung đại và khẳng định Phố Hiến thực sự là một “tiểu Tràng An”, xứng danh với câu ca còn được lưu truyền tới ngày nay “thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.

Là tỉnh có truyền thống văn hiến lâu đời, Hưng Yên còn lưu giữ nhiều di sản văn hóa truyền thống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội và hệ thống di tích lịch sử văn hóa phong phú, đặc sắc, những yếu tố góp phần tạo nên nét bản sắc văn hóa riêng của tỉnh. Hiện nay, tỉnh Hưng Yên có 1.802 di tích; trong đó, 172 di tích, cụm di tích xếp hạng quốc gia, 257 di tích, cụm di tích xếp hạng cấp tỉnh, đứng thứ 3 cả nước (sau Hà Nội và Bắc Ninh) về số lượng di tích xếp hạng quốc gia. Khu di tích Phố Hiến, chùa Thái Lạc và đền An Xá (Đậu An) được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; 6 hiện vật, nhóm hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia. Hưng Yên lưu giữ được kho tàng văn hóa phi vật thể đa dạng, phong phú với trên 500 lễ hội, 147 làng nghề truyền thống, 243 đơn vị ca dao, tục ngữ, hò, vè, ngụ ngôn, truyện cổ tích, hát ru, văn tế. Trên địa bàn tỉnh có nhiều nghệ nhân nắm giữ tri thức dân gian, tập quán xã hội, nghệ thuật trình diễn dân gian ở các loại hình ca trù, trống quân, hát chèo... Hát trống quân Hưng Yên và lễ hội đền Tống Trân đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. 19 nghệ nhân được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể.

Dưới ánh sáng soi đường và quan điểm chỉ đạo của Đảng “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hưng Yên đã tiếp thu và thực hiện hiệu quả các quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, của Bác Hồ về văn hóa và việc bảo tồn các di sản văn hóa, góp phần tạo thành nét đa dạng, phong phú và đặc sắc của vùng văn hóa Phố Hiến, góp phần vào sự nghiệp phát triển văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tiêu biểu của dân tộc hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam vì sự phát triển bền vững đất nước.

Chùa Nôm (Hưng Yên) - Ảnh: Nguyễn Thanh Hà

Những năm qua, công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa của tỉnh được các cấp, các ngành và nhân dân trong tỉnh quan tâm thực hiện. Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy các nhiệm kỳ đều ban hành nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo công tác phát triển sự nghiệp văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII đã ban hành Chương trình hành động số 34-CTr/TU ngày 15-8-2014 thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trong đó đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục hoàn thiện các quy định để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế, xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch; phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một, đặc biệt là các loại hình văn nghệ dân gian đặc sắc của tỉnh như: chèo, trống quân, ca trù; phát huy giá trị của các di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh, góp phần quảng bá hình ảnh quê hương và con người Hưng Yên” (6)Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XVIII ban hành Kế hoạch số 60-KH/TU ngày 25-5-2017 về thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành kinh tế mũi nhọn…

Triển khai các Chương trình, Kế hoạch của Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hưng Yên đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030; ban hành Đề án đầu tư tu bổ, chống xuống cấp các di tích xếp hạng cấp tỉnh, cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020; Đề án tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2016-2020 và triển khai thực hiện đạt nhiều kết quả. Đã thực hiện tu bổ, chống xuống cấp từ ngân sách nhà nước cho 105 di tích (74 di tích quốc gia, 31 di tích cấp tỉnh); đầu tư phục hồi, xây dựng một số di tích trọng điểm của tỉnh: đền thờ Quốc tổ Lạc Long Quân, đền thờ anh hùng áo vải Hoàng Hoa Thám, đền thờ Triệu Việt Vương, nhà lưu niệm Trung tướng Nguyễn Bình, nhà lưu niệm Lực lượng nữ du kích Hoàng Ngân Hưng Yên và Liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Trần Thị Khang, đền thờ Nguyễn Trung Ngạn... Nhiều địa phương đã huy động nguồn xã hội hóa từ các tổ chức, cá nhân để tu bổ, chống xuống cấp hàng trăm di tích, như: đền Dị Chế, đền Triều Dương, huyện Tiên Lữ; chùa An Xá, huyện Kim Động; đình Nho Lâm, thị xã Mỹ Hào. Thực hiện hiệu quả công tác kiểm kê, sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của tỉnh đối với lễ hội Đa Hòa - Dạ Trạch, lễ hội đền An Xá (Đậu An), lễ hội đình Quan Xuyên, lễ hội cầu mưa chùa Thái Lạc, làng nghề hương xạ Cao Thôn, đúc đồng Lộng Thượng, chạm bạc Huệ Lai… Tổ chức các lớp truyền dạy nghệ thuật hát ca trù, trống quân cho hạt nhân văn nghệ cơ sở; tổ chức biểu diễn nhiều chương trình nghệ thuật ca trù, trống quân, chèo để phục vụ nhân dân; tham gia các hội thi, hội diễn do Trung ương tổ chức và đạt thành tích cao. Công tác tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu tiềm năng, lợi thế và những giá trị tiêu biểu hệ thống di sản văn hóa của tỉnh được triển khai bằng nhiều hình thức: xuất bản ấn phẩm, tờ rơi, tờ gấp và quảng bá qua mạng xã hội; sản xuất phim giới thiệu các di sản văn hóa tiêu biểu; tham gia hội chợ, triển lãm tại các địa phương... Một số di tích đã trở thành điểm đến quen thuộc đối với du khách thập phương như: Khu di tích Phố Hiến; khu di tích Đa Hòa - Dạ Trạch; di tích đền An Xá (Đậu An); di tích đền Phù Ủng; di tích chùa Nôm, làng Nôm…

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa của tỉnh Hưng Yên cũng còn một số tồn tại như: Một số cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa. Ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc thực hiện các quy định về bảo tồn di sản văn hóa chưa cao. Nguồn kinh phí nhà nước đầu tư cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, tôn tạo di tích còn hạn chế; công tác xã hội hóa chưa đáp ứng so với yêu cầu; nhiều quy hoạch, dự án bảo tồn phát huy giá trị di tích đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, nhưng chưa được triển khai hoặc triển khai chậm. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể chưa được quan tâm đúng mức, nhiều di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ bị thất truyền. Tình trạng lấn chiếm, xâm phạm di tích, lợi dụng di sản văn hóa phi vật thể để thu lợi vẫn xảy ra tại một số nơi. Công tác tuyên truyền, quảng bá giới thiệu di sản văn hóa chưa được thường xuyên. Đội ngũ làm công tác quản lý di sản văn hóa còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, tính chuyên nghiệp chưa cao...

Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Hưng Yên trở thành một trung tâm di sản văn hóa đặc sắc tại khu vực đồng bằng sông Hồng và cả nước

Trên cơ sở đánh giá kết quả đã đạt được, xác định rõ các tồn tại, hạn chế trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa thời gian qua, đồng thời để triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, ngày 8-10-2021, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TU về Chương trình Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, di tích lịch sử gắn với phát triển du lịch tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2030. Nghị quyết đặt ra mục tiêu “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, di tích lịch sử gắn với phát triển du lịch góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, truyền thống lịch sử, con người Hưng Yên hiện đại, vì sự phát triển bền vững; quan tâm đầu tư các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, tạo thành sản phẩm du lịch văn hóahấp dẫn thu hút khách du lịch, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; giáo dục truyền thống yêu nước, làm phong phú kho tàng di sản văn hóa, lịch sử dân tộc. Xây dựng Hưng Yên trở thành: Một trung tâm di sản văn hóa đặc sắc tại khu vực đồng bằng sông Hồng và cả nước - một điểm đến an toàn, thân thiện và hấp dẫn” (7). Để đạt được mục tiêu trên phải có sự quyết tâm, nỗ lực với tinh thần trách nhiệm cao của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong tỉnh, trong đó tập trung vào những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Một là, đổi mới tư duy lãnh đạo, nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, cơ quan quản lý Nhà nước và toàn xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa, của di sản văn hóa trong đổi mới và phát triển bền vững. Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa phải được chú trọng tương xứng, hài hòa với phát triển kinh tế - xã hội, không đánh đổi lợi ích kinh tế với phát triển giá trị văn hóa. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến đến cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân những chủ trương, đường lối của Trung ương và của tỉnh về phát triển văn hóa và bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, trọng tâm là Cương lĩnh chính trị (bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành kinh tế mũi nhọn; Kết luận số 76-KL/TW ngày 4-6-2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX... Tăng cường tuyên truyền, phổ biến Luật Di sản văn hóa; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa và các văn bản hướng dẫn thi hành bằng nhiều hình thức truyền thông phù hợp. Tích cực vận động nhân dân tham gia công tác bảo vệ, phát huy giá trị di tích thông qua các hoạt động lễ hội, sinh hoạt tín ngưỡng tại di tích, các cuộc sinh hoạt tổ nhân dân tự quản tại địa phương. Xây dựng bộ quy tắc ứng xử văn hóa, giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống tại các điểm tham quan du lịch là di tích. Xây dựng chương trình giáo dục ngoại khóa cho học sinh, sinh viên gắn với việc tham quan, tìm hiểu các di tích. Thường xuyên phát động các cuộc thi tìm hiểu về các nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử gắn với từng giai đoạn lịch sử phát triển của tỉnh Hưng Yên; về vai trò của di sản văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Kịp thời động viên khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác bảo vệ và phát huy các giá trị của di tích.

Hai là, rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về công tác quản lý di sản văn hóa; quy định phân cấp quản lý di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh để phân định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý chuyên ngành, các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức, cá nhân liên quan. Từng bước kiện toàn bộ máy quản lý di sản văn hóa từ tỉnh đến cơ sở theo hướng hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý và phát huy giá trị di tích có tâm huyết, trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật về di sản văn hóa. Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật về di sản văn hóa cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa thông tin. Thường xuyên thanh tra, kiểm tra công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa, hoạt động bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích nhằm phát hiện, xử lý nghiêm, kịp thời các tổ chức, cá nhân có hành vi xâm hại di tích, không để xảy ra tình trạng mất cắp di vật, cổ vật, đồ thờ tự tại các di tích. Chấn chỉnh tình trạng buông lỏng quản lý di tích ở địa phương, khắc phục tình trạng lấn chiếm, xâm hại di tích. Thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao cho tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý đất di tích theo quy định của pháp luật về đất đai. Xây dựng chính sách, chế độ đãi ngộ phù hợp đối với những người trực tiếp trông coi, bảo vệ di tích, nhằm động viên, khuyến khích họ tham gia tích cực, tự giác và có trách nhiệm cao trong việc bảo vệ, gìn giữ và phát huy giá trị di tích. Đồng thời cần xây dựng những nội dung ràng buộc chặt chẽ, gắn trách nhiệm cụ thể, rõ ràng cho Ban quản lý di tích cơ sở và những người trực tiếp trông coi di tích.

Ba là, định kỳ rà soát, kiểm kê hệ thống di tích của tỉnh theo quy định của Luật Di sản văn hóa; tổ chức nghiên cứu chuyên sâu các di tích lịch sử văn hóa, địa danh lịch sử có giá trị tiêu biểu, trên cơ sở đó lựa chọn những di tích đủ điều kiện đề nghị xếp hạng cấp quốc gia, cấp tỉnh. Tiến hành lập quy hoạch hệ thống di tích của tỉnh để tích hợp vào quy hoạch chung của tỉnh; triển khai lập quy hoạch chi tiết đối với các di tích quốc gia đặc biệt, cụm, khu di tích có giá trị tiêu biểu để có cơ sở lập dự án tu bổ, tôn tạo. Hằng năm, bố trí nguồn ngân sách các cấp tương xứng với sự phát triển kinh tế của tỉnh, đồng thời xây dựng cơ chế huy động các nguồn lực của xã hội để đầu tư tu bổ, tôn tạo các di tích tiêu biểu của tỉnh trở thành những di sản có chất lượng cao về khoa học bảo tồn và môi trường văn hóa, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế du lịch. Căn cứ các quy hoạch bảo tồn, phát huy giá trị các di tích đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, xây dựng danh mục dự án tu bổ, tôn tạo di tích đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 và giai đoạn tiếp theo. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nhà nước; đẩy mạnh xã hội hóa nguồn lực cho việc tu bổ, tôn tạo di tích. Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật kết hợp phương pháp thi công truyền thống vào việc tu bổ, tôn tạo, phục dựng di tích đảm bảo nguyên tắc tu bổ, phục hồi di tích. Thực hiện tốt việc nghiên cứu, bảo tồn các di sản văn hóa trong quá trình triển khai những dự án đầu tư xây dựng các công trình có ảnh hưởng đến di tích. Xác định nội dung và biện pháp bảo quản, tu bổ, phục hồi các yếu tố gốc của di tích, định hướng tổ chức không gian các hạng mục công trình xây dựng mới, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, tạo môi trường cảnh quan hài hòa để phát huy tối đa giá trị của di tích, không làm biến dạng di tích.

Bốn là, tiếp tục triển khai việc điều tra, sưu tầm, nghiên cứu toàn diện các di sản văn hóa phi vật thể của tỉnh, nhất là những di sản tiêu biểu có nguy cơ bị thất truyền. Xây dựng phương án bảo tồn giá trị văn hóa đặc trưng của cộng đồng, không ngừng tái tạo và lưu truyền các di sản văn hóa phi vật thể từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác tại cộng đồng; hạn chế tối đa nguy cơ bị thất truyền, nhất là những di sản là tri thức dân gian do các nghệ nhân nắm giữ nhưng tuổi đã cao. Lựa chọn những di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu trình Bộ VHTTDL xem xét đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia... Từng bước số hóa xây dựng hệ thống thông tin về di sản văn hóa phi vật thể phục vụ công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân, cộng đồng, chính quyền các cấp về tầm quan trọng, giá trị và tiềm năng của di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Hưng Yên. Thực hiện việc giáo dục, phổ biến rộng rãi di sản văn hóa phi vật thể thông qua tổ chức trưng bày, trình diễn, giới thiệu các nghi lễ, lễ hội, di sản văn hóa tiêu biểu tại bảo tàng tỉnh và lưu động tại các địa phương. Đưa nội dung giảng dạy di sản văn hóa của địa phương vào bậc học phổ thông của tỉnh. Tổ chức các lớp truyền dạy, liên hoan, hội thi, giao lưu thực hành di sản văn hóa phi vật thể; thành lập và duy trì hoạt động có hiệu quả các câu lạc bộ ca trù, trống quân ở những địa phương có truyền thống. Có chính sách hỗ trợ, tôn vinh tổ chức, cá nhân, nghệ nhân có nhiều đóng góp cho hoạt động bảo tồn và thực hành, truyền dạy, phổ biến văn hóa phi vật thể.

Năm là, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, quảng bá như xây dựng chuyên trang, chuyên mục về di sản văn hóa, giới thiệu những giá trị di sản, các tour, tuyến du lịch khai thác di sản. Tổ chức các sự kiện, hội nghị, hội thảo, hội diễn, hội chợ, liên hoan; trưng bày, triển lãm, giới thiệu chuyên đề về di sản văn hóa, các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch ở khu vực, trong nước và quốc tế; tăng cường sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, các nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quảng bá tiềm năng, giá trị của di sản. Từng bước đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ nhằm tăng hiệu ứng của di sản văn hóa, nhất là các di tích lịch sử; liên kết, hợp tác với các tổ chức, cá nhân để đầu tư mua sắm máy móc công nghệ hiện đại phục vụ trưng bày, triển lãm di sản văn hóa tại di tích, bảo tàng; đặc biệt là công nghệ thực tế ảo (công nghệ 3D), số hóa hiện vật, tài liệu, di sản văn hóa phục vụ nhu cầu trải nghiệm, khám phá của du khách. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, tình yêu quê hương đất nước gắn với hệ thống di tích lịch sử - văn hóa trên hệ thống thông tin đại chúng. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị di sản văn hóa. Mỗi người dân là một tuyên truyền viên, hướng dẫn viên du lịch ở các điểm di tích. Tiếp tục nghiên cứu, xuất bản các ấn phẩm như sách, tờ rơi, tờ gấp, bưu ảnh bằng nhiều thứ tiếng giới thiệu về mảnh đất, con người, các di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh. Phối hợp với các cơ quan báo chí ở trung ương, ở tỉnh thường xuyên viết bài giới thiệu về di sản văn hóa và hệ thống di tích tiêu biểu của tỉnh; phối hợp với các hãng phim trong và ngoài nước xây dựng các chương trình, bộ phim về di sản văn hóa hoặc lồng ghép hình ảnh di sản văn hóa, du lịch Hưng Yên trong các cảnh quay, góp phần quảng bá di sản văn hóa của tỉnh.

Sáu là, nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm du lịch độc đáo mang bản sắc của Hưng Yên như du lịch tham quan di tích lịch sử văn hóa, làng nghề truyền thống, du lịch lễ hội, du lịch sinh thái cảnh quan đê sông Hồng, du lịch nghỉ dưỡng... Từng bước tạo dựng hình ảnh du lịch của Hưng Yên thông qua hoạt động xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá du lịch. Tích cực, chủ động phối hợp với các cơ quan trung ương để tranh thủ các nguồn vốn đầu tư trùng tu, tôn tạo di tích, nhất là các di tích lịch sử văn hóa có tiềm năng phát triển du lịch theo Quy hoạch đã được phê duyệt. Tuyển chọn, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác du lịch ngang tầm quốc gia, khu vực; xây dựng đội ngũ thuyết minh, hướng dẫn viên du lịch có chất lượng tại các di tích lịch sử văn hóa, trước hết là tại các địa điểm di tích đang được khai thác phục vụ du lịch. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư bằng những chính sách ưu đãi thu hút vốn để phát triển du lịch của tỉnh.

Di sản văn hóa Hưng Yên là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa dân tộc, là tài sản của các thế hệ đi trước trao truyền lại cho chúng ta. Đây là loại tài sản quý giá không thể thay thế, không thể tái sinh, nhưng lại rất dễ bị biến dạng và tổn thương trước tác động của các nhân tố tự nhiên và cách hành xử chưa đúng mực do chính con người gây ra.Việc bảo vệ, giữ gìn những di sản văn hóa cho hôm nay và mai sau chính là thể hiện sự trân trọng, tri ân đối với các bậc tiền nhân, là biểu hiện cụ thể lòng yêu nước, ý thức giữ gìn, vun đắp những truyền thống tốt đẹp, lấy đó làm nội lực sức mạnh trong quá trình tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như tư duy, lý luận của Đảng về văn hóa đã đặt ra. Do vậy, cùng với những nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, thời gian tới tỉnh Hưng Yên cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt công bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, kịp thời ngăn chặn tình trạng xuống cấp các di tích lịch sử văn hóa, quyết tâm xây dựng tỉnh Hưng Yên ngày càng giàu đẹp, văn minh, một trung tâm di sản văn hóa đặc sắc tại khu vực đồng bằng sông Hồng và cả nước - một điểm đến an toàn, thân thiện và hấp dẫn, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Để đạt được mục tiêu đề ra, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh, Hưng Yên rất mong nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự phối hợp, hỗ trợ của các ban, bộ, ngành trung ương và các tỉnh, thành về mọi mặt, trong đó có công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa của địa phương.

_______________

1. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, phần I (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.429.

2. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1998, tr.63.

3. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.330.

4. GS, TS Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo Nhân Dân, số 23945, 17-5-2021, tr.2.

5. Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12-11-2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030.

6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (khóa XVII), Chương trình hành động số 34-CTr/TU ngày 15-8-2014 thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, tr.6.

7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (khóa XIX), Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 8-10-2021 về Chương trình Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, di tích lịch sử gắn với phát triển du lịch tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2030, tr.4.

NGUYỄN HỮU NGHĨA

Nguồn: Tạp chí VHNT số 488, tháng 2-2022

;