Nguyễn Trương Quý như một nhà văn say mê viết về Hà Nội và tập du khảo Triệu dấu chân qua những cửa ô của anh như một chân dung Hà Nội qua những dấu chân đi về. Như anh chia sẻ trong lời nói đầu cuốn sách, “Hà Nội có nhiều cửa ô, tôi chọn biểu tượng này vì lẽ chúng là tên gọi gợi nhớ ngay đến Hà Nội, và cửa ô trong tâm tưởng là những lối nhập thành, tìm hiểu những câu chuyện của đời phố.”
Buổi ra mắt sách Triệu dấu chân qua những cửa ô
Cuối năm 2020, Nguyễn Trương Quý cho ra mắt tập tản văn Hà Nội bảo thế là thường, trong đó anh đi vào những mảnh ghép của Hà Nội, những đặc trưng nho nhỏ, thói quen hay tâm tình của con người Thủ đô… Tập du khảo Triệu dấu chân qua những cửa ô là tập hợp những tư liệu trong khoảng một trăm năm qua, những đường đi lối lại của của người Hà Nội, những phương tiện họ sử dụng, những chốn ở và đi quen thuộc cả trong đời thường và trong vọng tưởng. Và trong cuộc đi lại mải miết ấy, theo vòng quay lịch sử, không gian và sự vật đổi thay, kéo theo sự đổi thay của tâm tình người Hà Nội.
Triệu dấu chân qua những cửa ô gồm 5 phần “Nhập thành”, “Lên xe xuống bến”, “Thưởng hoa ngoạn thủy”, “Lạc thú và ưu tư”, và “Tiếng rền của phố”. Nhà nghiên cứu, PGS, TS Phạm Xuân Thạch cho rằng, cách sắp xếp 5 phần như vậy gợi hình ảnh 5 cửa ô, như phần đầu tiên của cuốn sách. Bao gồm những khảo cứu công phu, cuốn sách được Nguyễn Trương Quý phác họa “trong khi đi tìm những câu chuyện về Hà Nội trong vòng trăm năm qua, nghĩa là khoảng thời gian Hà Nội được tạo dựng thành một thành phố hiện đại, tôi gặp những câu chuyện khó xếp vào một chủ đề duy nhất. Chúng nằm ở khoảng giao thoa của rất nhiều chủ đề làm nên chân dung thành phố. Tôi bắt đầu mạch những khảo cứu này ở tâm thế kẻ lang thang trên những con đường cũ mới, trong những trang viết, bài thơ hay câu hát về chúng, rồi đến một lúc lan rộng ra những ngã rẽ hay dừng chân ở những khoảng không gian mà tôi ví chúng như quảng trường, ngã tư. Tập khảo cứu này, thực sự là một hành trình được thuật lại”.
Tác giả chia sẻ, sở dĩ anh chọn 5 cửa ô để làm biểu tượng cho cuốn sách “vì lẽ chúng là tên gọi gợi nhớ ngay đến Hà Nội, và cửa ô trong tâm tưởng là những lối nhập thành, tìm hiểu những câu chuyện của đời phố. Trên hành trình ấy, những chuyến tàu xe theo dọc dài lịch sử cận và hiện đại lại chở những nhân vật văn hóa. Mỗi người trong số họ cũng có cuộc hành trình riêng, nhưng đều đi trên một chuyến chuyển dịch lớn của xã hội Việt Nam trong thế kỷ nhiều biến động. Những nhân vật tôi chọn viết về là những người khách của một khoang riêng trên chuyến tàu, họ có thể gây chú ý ở số ghế quá đặc biệt nhưng cũng có khi lặng lẽ lướt qua lối đi. Phần lớn cuộc di chuyển lại tựa như một chuyến du ngoạn chậm rãi vòng quanh Hà Nội, người lên người xuống, có người đi mang theo hình bóng một thời không quay trở lại, có người lên lại nhắc nhở về quá khứ dưới một dáng vẻ mới”.
Nhà văn Nguyễn Trương Qúy ký tặng sách cho tác giả
Cuốn sách còn hấp dẫn bởi vị sâu lắng ngậm ngùi pha lẫn nét hài hước ý nhị, bởi những kết nối giữa quá khứ và hiện tại. “Tôi lấy khoảng thời gian ước định một trăm năm là vì có ý tìm một sự đối chiếu giữa hôm nay, thập niên thứ hai của thế kỷ 21 với những năm đầu thế kỷ 20. Thay vì cố gắng tạo ra ấn tượng về một quá khứ chân xác kiểu duy vật thuần túy, tôi tìm cách trả lời cho những thắc mắc của chính mình về một sự tiếp biến các biểu tượng và hành vi văn hóa ở Hà Nội nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung bằng cách thử vẽ ra hành trình chuyển động của những điều đó trong liên thông văn bản văn học và văn hóa chung. Bản thân một văn bản văn chương như truyện ngắn, tiểu thuyết, bài thơ hay một bài hát, thậm chí các bài báo cũ chỉ phát huy vai trò của chúng khi được đặt vào một bối cảnh được xem xét chu đáo. Có thể cách làm này được xem như một loại phương pháp “lịch sử mới” hay “tân duy sử”, song tôi luôn tin rằng, suy tư về mức độ, liều lượng của những thứ rất tinh vi ở Hà Nội thực sự cần thiết để hiểu đời sống mảnh đất này. Có rất nhiều thứ rất nhỏ mà ngoảnh lại nhìn trăm năm qua, sự biến mất hoặc biến đổi của chúng làm cho Hà Nội hôm nay rất khác đầu thế kỷ 20. Có những thứ đã biến mất hoặc khuất dạng trong văn hóa giao thông thường nhật mà vẫn đủ sức kéo dài hình tượng mấy chục năm sau, chẳng hạn tàu điện trên mặt đất hay tàu thủy trên sông Hồng. Có những thứ đang là phương tiện chủ lực nhưng dường như số phận của chúng trên những con đường nội thành chỉ tính bằng năm như xe máy. Có những thứ đã từng là tập quán tưởng như ăn sâu vào tâm thức cộng đồng như nghĩa trang, vậy mà đến lúc đã phải thay đổi nghi thức. Viết về sự hiện diện của chúng có lẽ cũng là ghi lại sự hiện diện của chính chúng ta, với đủ vui buồn”.
Đó có thể là sự phôi pha của những cửa ô trước sự phát triển của đô thị mới: “Nhưng rồi người Việt cũng mau chóng hấp thụ những hình thái mới, với họ ngã tư và cột đèn trở thành cặp bài trùng mới cho đô thị, thay cho những bến sông và cửa ô. Ngay chính những cửa ô cũng trở thành các ngã tư, ngã năm khi những đoạn tường lũy bị bạt thấp dần trở thành đường đi”; Hay là nỗi hoài nhớ đượm màu lãng mạn của con người dành cho những chiếc tàu điện đã biến mất vì không còn sự thực dụng: “Tiếng leng keng không thay đổi qua năm tháng đã giúp việc hồi cố chồng lấn hai thời Pháp thuộc và bao cấp. Nó khiến người thời bao cấp và cả hậu bao cấp vẫn như được đồng hội đồng thuyền với người thời Pháp thuộc. Nó mỹ hóa ký ức của họ. Họ nhớ tàu điện là nhớ năm tháng nhọc nhằn, để rồi bồi đắp một ý niệm về vẻ đẹp khổ hạnh mà giờ đây lại thành của hiếm.”
Khi tìm hiểu những không gian, sự vật, sự kiện, nhân vật trong câu chuyện đi lại này, Nguyễn Trương Qúy luôn đào sâu xuống dưới những mô tả bề mặt, những con số khô khan, để đưa ra những nhận xét, phán đoán sâu sắc, thú vị hoặc gây bất ngờ. Điều ấy làm cho cuốn sách một mặt có sức nặng của khảo cứu, mặt khác không thiếu đi sự duyên dáng, nhịp nhàng, thơ mộng của văn chương.
PGS, TS Phạm Xuân Thạch nhận xét: “Điều lý thú nhất của Trương Quý là sự gặp nhau giữa cách khảo cứu nghiêm ngặt và cách kể chuyện đầy chất thơ. Nguyễn Trương Quý và Nguyễn Vĩnh Nguyên là những người đã tìm được cách kể chuyện riêng. Nguyễn Trương Quý đã tìm từ rất nhiều tàng thư chỉ để lấy một chi tiết nào đó. Anh có cách khảo cứu chất lượng, hòa hợp được với cách kể chuyện”.
Rất đông tác giả đến giao lưu với tác giả trong buổi ra mắt tập du khảo Triệu dấu chân qua những cửa ô
Nhà nghiên cứu, Tiến sĩ ngữ văn Hà Thanh Vân nhận xét, Nguyễn Trương Quý là một kiến trúc sư, một người vẽ đẹp và cũng là một nhà văn. Các nhà văn khác chỉ nhìn Hà Nội từ góc nhìn của nhà văn, còn anh có thể nhìn Hà Nội từ nhiều góc độ khác nhau, điều đó khiến những trang viết của anh trở nên thú vị. Còn biên tập viên Nguyễn Hoàng Diệu Thủy của Nhã Nam cho rằng, sách của Nguyễn Trương Quý là sách giải nghĩa về huyền thoại. Ở đó, anh nhẩn nha kể chuyện người, chuyện phố, có những chuyện mọi người có thể đã biết nhưng chưa biết hết, có những chuyện chưa ai nghe bao giờ. Chính vì thế, sách của anh có tính khảo cứu cao nhưng lại rất hấp dẫn đối với bạn đọc.
Điều đặc biệt của cuốn sách là bức tranh bìa vẽ cảnh Ô Quan Chưởng cũng chính là do Nguyễn Trương Quý vẽ: “Tôi rất vui vì bức tranh được tái sinh trong một đời sống khác. Đây là một bức tranh tôi vẽ tình cờ vào mộ buổi trưa cuối năm, vào thời điểm gần Tết Nguyên đán khoảng năm 2018. Khi đó trời mưa, phố rất vắng, chỉ có một phụ nữ gánh hàng rong đi qua. Tranh được trưng bày nhân dịp khai trương Ơ kìa Hà Nội và được bán ngay trong triển lãm đó”.
Sau rất nhiều cuốn sách về Hà Nội như: Tự nhiên như người Hà Nội (2004), Hà Nội là Hà Nội (2010), Còn ai hát về Hà Nội (2013), Một thời Hà Nội hát - Tim cũng không ngờ làm nên lời ca (2018), Hà Nội bảo thế là thường (2020), Triệu dấu chân qua những cửa ô làm giàu thêm những góc nhìn về mảnh đất kinh kỳ của một tác giả từng đoạt Giải thưởng Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội năm 2019.
LÊ KHÁNH VI
Nguồn: Tạp chí VHNT số 517, tháng 11-2022