Tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) có vị trí rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng, là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị, cầu nối giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Xây dựng TCCSĐ bao giờ cũng gắn bó mật thiết với xây dựng đội ngũ đảng viên - nhân tố quyết định trực tiếp đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ. Khi bàn đến vị trí, vai trò của đội ngũ đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức nên. Mọi công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện” (1).
Thực tiễn hơn 92 năm hoạt động của Đảng đã cho thấy, việc củng cố xây dựng TCCSĐ và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và cách mạng; luôn được Đảng coi trọng và xác định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Trong công cuộc đổi mới đất nước, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 2-2-2008 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, Kết luận số 38-KL/TW, ngày 13-11-2018 của Bộ Chính trị khóa XII về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 22-NQ/TW, công tác xây dựng TCCSĐ và đội ngũ đảng viên đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, “góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực, phẩm chất, uy tín, tăng cường và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ” (2). Tuy nhiên, chất lượng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số TCCSĐ còn hạn chế; “chưa thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của Đảng trong giải quyết những vấn đề khó khăn, bức xúc của nhân dân ở cơ sở… Một bộ phận đảng viên năng lực, trình độ, trách nhiệm chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới” (3).
Cụ thể hóa và đưa chủ trương của Đại hội XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đi vào cuộc sống, để tiếp tục tạo bước chuyển biến, tiến bộ mới, thực chất, mạnh mẽ, hiệu quả, nâng cao chất lượng, sức mạnh và tính chiến đấu của Đảng, trên cơ sở kết quả Hội nghị lần thứ 5, ngày 16-6-2022, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW Về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới. Nghị quyết đã đề cập toàn diện về xây dựng TCCSĐ và đội ngũ đảng viên. So với Nghị quyết số 22-NQ/TW (2-2008), Nghị quyết số 21-NQ/TW (6-2022) có một số điểm mới nổi bật:
Điểm mới trong các quan điểm chỉ đạo xây dựng TCCSĐ và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Ở quan điểm thứ nhất, Nghị quyết số 21 đã bổ sung thành tố “xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” (4). Đây là một sự bổ sung đúng đắn, kịp thời của Đảng. Bởi lẽ: Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, nhưng là bộ phận đặc biệt, “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (5). Ở Đại hội XIII, vấn đề này được thể hiện ngay trong thành tố đầu tiên của chủ đề Đại hội: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Sự khẳng định này thể hiện rõ sự phát triển về nhận thức của Đảng đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay; đồng thời, đặt ra yêu cầu phải gắn kết chặt chẽ hơn nữa giữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở.
Trên thực tế, phần lớn cán bộ đảm nhiệm các cương vị trong tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đều là đảng viên của Đảng, được chuẩn y sau khi trúng cử đại hội, do Đảng giới thiệu, đoàn thể và nhân dân bầu ra. Vì vậy, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và đội ngũ đảng viên sẽ quyết định trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Ngược lại, hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả sẽ đóng vai trò là cơ sở, điều kiện để đội ngũ đảng viên được rèn luyện, cống hiến và trưởng thành hằng ngày, giúp cho các TCCSĐ ngày càng vững mạnh.
Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn hiện tượng “Một số cấp ủy cơ sở chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu; chưa chủ động, kịp thời kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; mất sức chiến đấu, để xảy ra tiêu cực, tham nhũng, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật, làm giảm niềm tin của nhân dân với Đảng” (6). Năng lực, trình độ của một số cấp ủy viên, bí thư cấp ủy, cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Một số cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị chưa thực sự vững vàng, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình còn yếu. Đáng chú ý: “Nhiều nơi, chi bộ chưa thể hiện được vai trò hạt nhân chính trị nên nhân dân chưa thực sự tin tưởng, gần 40% thôn, bản, tổ dân phố không giới thiệu được đảng viên để nhân dân tín nhiệm bầu làm trưởng thôn, bản, tổ dân phố” (7). Cùng với đó, chủ trương mới về nhân rộng mô hình tổ chức bộ máy ở cơ sở theo hướng: Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch hội đồng nhân dân; Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND ở những nơi có điều kiện; Bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, khóm, ấp, tổ dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận; Bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và thực tiễn ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị đang được triển khai đồng bộ, quyết liệt.
Những vấn đề nêu trên đặt ra yêu cầu mới, cấp thiết hơn đối với công tác củng cố, xây dựng TCCSĐ, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên phải gắn chặt với quá trình tổ chức lại bộ máy của hệ thống chính trị ở cơ sở; nhằm “khắc phục sự chồng chéo và bất hợp lý trong tổ chức của Đảng và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị” (8), góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và đồng bộ với quá trình đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội, con người… tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp trước mắt và lâu dài.
Ở quan điểm thứ hai, Nghị quyết 21 khẳng định: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, sức chiến đấu của TCCSĐ phải gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức và cán bộ…” (9). Trước Đại hội XII, xây dựng Đảng thường tập trung trên 3 mặt (chính trị, tư tưởng, tổ chức). Đại hội XII chủ trương xây dựng Đảng trên 4 mặt (chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức). Từ Đại hội XIII, xây dựng, chỉnh đốn Đảng được nhấn mạnh đến tính toàn diện: Xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Do đó quan điểm trên của Nghị quyết số 21 thể hiện sự quán triệt chủ trương của Đại hội XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng vào xây dựng TCCSĐ trong giai đoạn mới.
Quan điểm thứ ba: “Đội ngũ đảng viên là nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Tạo môi trường để đảng viên rèn luyện, phấn đấu, đồng thời mỗi đảng viên phải tự ý thức học tập, tu dưỡng, rèn luyện về mọi mặt...” (10). Nếu trước đây, Nghị quyết số 22 (2-2008) chưa xác định quan điểm riêng về đội ngũ đảng viên, thì nay ở Nghị quyết số 21 (6-2022) vấn đề này đã được xác định thành một quan điểm hoàn chỉnh. Quan điểm này chỉ ra vị trí, vai trò của đội ngũ đảng viên trong mối quan hệ với TCCSĐ, đồng thời xác định trách nhiệm của tổ chức đảng đối với đảng viên và trách nhiệm của đảng viên đối với Đảng; mối quan hệ giữa đảng viên với nhân dân. Quan điểm này còn định hướng những vấn đề quan trọng về công tác quản lý đảng viên, phát triển đảng và sàng lọc đảng viên.
Quán triệt quan điểm này, trong quá trình quản lý, rèn luyện đảng viên, các cấp ủy, chi bộ cần tin tưởng, mạnh dạn giao những nhiệm vụ mới, khó khăn, phức tạp cho đảng viên để thử thách họ. Dựa chắc vào khả năng, sở trường của từng đảng viên để phân công cho phù hợp; quan tâm đúng mức và tạo điều kiện thuận lợi cho đảng viên mới được rèn luyện, trải nghiệm. Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm cơ sở cho đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức; nâng cao ý thức rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, “tự soi”, “tự sửa”, đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên.
Trong giai đoạn hiện nay, khi tình hình thế giới và trong nước có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng; sự nghiệp đổi mới đất nước đang đặt ra nhiều vấn đề mới; sự tác động mạnh mẽ của mặt trái cơ chế thị trường; âm mưu chống phá của các thế lực thù địch đối với đội ngũ đảng viên, nếu đội ngũ đảng viên không tích cực, chủ động rèn luyện, phấn đấu vươn lên trong công tác sẽ dẫn tới giảm sút ý chí phấn đấu, lạc hậu trước thực tiễn, suy thoái, biến chất. Vì vậy, đội ngũ đảng viên phải rèn luyện một cách toàn diện cả về nhân cách, đạo đức, phong cách, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tiên phong, gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng và lời thề khi vào Đảng; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Mỗi đảng viên phải xây dựng kế hoạch phấn đấu, rèn luyện để chi ủy, chi bộ kiểm tra, giám sát, làm cơ sở để kiểm điểm, đánh giá xếp loại cuối năm.
Điểm mới trong xác định mục tiêu xây dựng TCCSĐ và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Khi xác định mục tiêu xây dựng TCCSĐ và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng, năm 2008 trong Nghị quyết số 22, Ban Chấp hành Trung ương khóa X mới chỉ xác định mục tiêu trong khoảng thời gian 5 năm; diễn đạt mục tiêu đó theo định tính, chưa đưa ra định mức (số liệu cụ thể) theo từng giai đoạn. Không lặp lại cách xác định mục tiêu như Nghị quyết số 22, lần này trong Nghị quyết số 21, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã xác định cả mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể có tính định lượng cho giai đoạn 5 năm và giai đoạn lớn 10 năm. Mục tiêu tổng quát được Hội nghị thống nhất xác định là: Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ, chất lượng đội ngũ đảng viên, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, nhất là bí thư cấp ủy đủ phẩm chất, năng lực, uy tín lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của TCCSĐ; nâng cao chất lượng phát triển đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, Nghị quyết đã đưa ra mục tiêu cụ thể; trong đó, xác định đến năm 2025: “Hằng năm có trên 90% tổ chức cơ sở đảng, đảng viên được đánh giá xếp loại từ hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; phấn đấu 100% thôn, bản có đảng viên. Tỷ lệ kết nạp đảng viên mới hằng năm trong giai đoạn 2020-2025 đạt 3-4% tổng số đảng viên” (11). Ngoài những mục tiêu như đã xác định của giai đoạn 2020-2025, mục tiêu đến năm 2030, Nghị quyết đề ra: “phấn đấu 100% thôn, bản, tổ dân phố có chi bộ” (12).
Như vậy, so với các văn kiện trước, đây là lần đầu tiên Đảng đưa ra các mục tiêu cụ thể cho công tác xây dựng TCCSĐ và đội ngũ đảng viên trên từng nhiệm vụ, từng lĩnh vực. Đáng chú ý, việc đề ra mục tiêu phấn đấu có 100% thôn, bản, tổ dân phố có đảng viên vào năm 2025 và có chi bộ vào năm 2030 là rất quan trọng, có ý nghĩa to lớn đến giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Thực hiện thắng lợi mục tiêu này nhằm hiện thực hóa chủ trương ở đâu có quần chúng, ở đó có sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời, khắc phục kịp thời những hạn chế, yếu kém của công tác củng cố, xây dựng TCCSĐ và đội ngũ đảng viên ở những địa bàn khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo… trong nhiều năm qua, khi một số nơi vẫn còn tình trạng “trắng” đảng viên.
Điểm mới trong các nhiệm vụ, giải pháp xây dựng TCCSĐ, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Trước đây, ở Nghị quyết số 22 (2-2008), Ban Chấp hành Trung ương đã xác định các nhiệm vụ, giải pháp chung cho xây dựng TCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên (tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng; hoàn thiện mô hình tổ chức của các loại hình TCCSĐ; thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa và từng bước nhất thể hóa chức danh cán bộ; tạo bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở; nâng cao chất lượng, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của các loại hình TCCSĐ; tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên; dựa vào dân để xây dựng Ðảng). Lần này, tại Nghị quyết số 21 (6-2022), Ban Chấp hành Trung ương đã trình bày thành bốn nhóm nhiệm vụ và giải pháp, trong đó hai nhóm giải pháp đầu tương ứng với hai thành tố trong tên gọi của Nghị quyết: Củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ; Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Tiếp đến hai nhóm giải pháp có giá trị áp dụng chung là: Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng TCCSĐ và đội ngũ đảng viên. Trên từng nhóm nhiệm vụ, giải pháp đã diễn đạt rõ, gắn sát với từng đối tượng xây dựng cụ thể.
Như vậy, so với các văn kiện trước, việc tách biệt thành các nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu trong Nghị quyết 21 lần này đã thể hiện rõ hơn tư duy của Đảng về vị trí, vai trò của từng nhiệm vụ giải pháp. Các nhiệm vụ giải pháp này có sự tác động qua lại lẫn nhau, đều hướng đến nâng cao chất lượng củng cố, xây dựng TCCSĐ và đội ngũ đảng viên; đồng thời mỗi nhiệm vụ, giải pháp có đặc điểm và yêu cầu riêng biệt. Việc tách biệt rõ thành các nhóm nhiệm vụ giải pháp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình triển khai thực hiện trên thực tiễn, nhất là việc khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong công tác này trong những năm qua.
Quán triệt, thực hiện Nghị quyết số 21, việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ cần tập trung vào: đổi mới, hoàn thiện tổ chức của các loại hình TCCSĐ; rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình TCCSĐ; đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của TCCSĐ; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở. Để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên cần tập trung vào đổi mới, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đảng viên; tăng cường công tác quản lý đảng viên; kịp thời rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên. Trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng cần phải: coi trọng tự kiểm tra, giám sát của cấp ủy, TCCSĐ; kết hợp kiểm tra, giám sát thường xuyên với kiểm tra, giám sát theo chuyên đề; đẩy mạnh kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối với TCCSĐ, xử lý kịp thời đối với tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng TCCSĐ và đội ngũ đảng viên đòi hỏi phải: nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát việc thực hiện quy định nêu gương, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của đảng viên ở nơi làm việc và nơi cư trú; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước; phát huy vai trò trong công tác tuyên truyền, vận động, tham gia xây dựng TCCSĐ và đội ngũ đảng viên.
______________
1. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.281.
2, 3, 4, 6, 9, 10, 11, 12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.156, 156-157, 159, 157, 160, 160, 161-162, 162.
5. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.10.
7. Ban Chấp hành Trung ương, Kết luận số 38-KL/TW ngày 13/11/2018 của Bộ Chính trị về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 22-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, Hà Nội, 2018, tr.2.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.185.
TS NGUYỄN VĂN TRƯỜNG - TS TRẦN VĂN RẠNG
Nguồn: Tạp chí VHNT số 512, tháng 10-2022