Có thể nói rằng, tại các cơ sở đào tạo thanh nhạc trên phạm vi toàn quốc ngày nay, việc giảng dạy các aria trích từ opera là điều bắt buộc kể cả đó là dòng opera hay thính phòng. Chúng ta thấy rằng việc phân tích những đặc điểm âm nhạc trong các aria trích trong opera của Mozart là việc làm vừa có tính khoa học, vừa có tính thực tiễn đối với khoa Thanh nhạc, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam cũng như các cơ sở đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp khác tại Việt Nam.
Đặc điểm âm nhạc của W.A. Mozart
Đặc điểm nổi bật trong âm nhạc của Mozart đó là sự tinh tế, giàu chất giai điệu và sức thể hiện, tràn đầy sức sống, dễ cảm nhận cả về âm nhạc và nội dung. Âm nhạc của ông luôn tràn đầy tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống. Hình tượng âm nhạc tươi tắn, độc đáo. Ngôn ngữ âm nhạc chân thật, giản dị, tứ nhạc mới mẻ, giàu biếm họa, thủ pháp tinh tế. Âm nhạc trong các tác phẩm thanh nhạc của Mozart mang phong cách Galant đặc trưng cuối TK XVIII. Đó là phong cách cổ điển đơn giản, trở lại sau thời kỳ phức tạp và cầu kỳ của âm nhạc Baroque, phong cách đẹp như thi ca, hội họa với những ý tưởng bay bổng...
Mặc dù kế thừa những thành quả ưu tú, phong phú nhất của Gluck, nhưng khác hẳn với Gluck, trong opera của Mozart, thi ca phục tùng cho âm nhạc. Mozart nhấn mạnh vai trò chủ đạo là sáng tạo, khắc họa hình tượng miêu tả phản ánh tình cảm tư tưởng bằng ngôn ngữ âm nhạc. Với sự cải cách tuyệt vời đó, Mozart đã trở thành người mở cánh cửa lớn cho sự ra đời của opera lãng mạn TK XIX.
Người ta thấy rõ một màu sắc nổi trội trong âm nhạc của Mozart đó là trữ tình nhưng không ảm đạm đau buồn; những tâm trạng bối rối, kịch tính nhưng lại toát lên một phong thái yêu đời, khát khao cuộc sống nhân văn. Âm nhạc của ông giải thoát được sự gò bó của tuyến giai điệu và giao tiếp với dàn nhạc tạo ra được sự kết nối hoàn hảo.
W.A. Mozart sáng tác những aria trong các opera hoặc những aria độc lập, đều tập trung vào chính ca sĩ là những người mà Mozart yêu mến hay ca sĩ mà ông nắm rõ đặc điểm giọng hát của họ như: âm vực, màu giọng và kỹ thuật của các ca sĩ thời đó để có thể khai thác cách xử lý tốt nhất cho tác phẩm. Những tác phẩm của Mozart chú trọng chủ yếu đến giọng nữ cao, bởi ông chịu ảnh hưởng của những người xung quanh như người yêu, vợ, bạn bè... Âm nhạc của Mozart là kết hợp giữa sự mô tả tính kịch trong giọng hát và nhạc cụ cùng hòa tấu.
Trong giáo trình giảng dạy các nhạc cụ phương Tây như piano, dây, kèn... tác phẩm của Mozart giữ một vị trí quan trọng về việc thiết lập những kỹ thuật diễn tấu mang tính nền tảng cho sinh viên. Theo GS, NSND Nguyễn Trung Kiên, đối với giảng dạy thanh nhạc, các tác phẩm của Mozart cũng có ý nghĩa tương tự. Âm nhạc của Mozart viết cho thanh nhạc nổi bật với những đặc trưng là các kỹ thuật cơ bản trong thanh nhạc, nhịp điệu, câu đoạn rõ ràng.
Có thể nói, âm nhạc của Mozart có khả năng tác động đến người nghe bởi sự tự nhiên trong giai điệu, trong nhịp điệu, sự hài hòa giữa hình thức và sự chuyển động trong âm nhạc. Âm nhạc của Mozart là sự tổng hòa của trời - đất, thiên nhiên và con người, bi kịch và hài kịch, niềm đam mê và sự bình an trong nội tâm sâu sắc, sự trong trắng và các nhân vật xấu xa, sự dốt nát và tinh vi của con người, sự hèn nhát và anh hùng, các tín đồ trung thành, phản bội, quý tộc và nông dân.
Đồng thời âm nhạc của ông cũng hội tụ đầy đủ các yếu tố của thiên nhiên như trời đất, mưa, gió, sấm, sét... Rõ ràng, Mozart đã đưa cả vũ trụ vào trong âm nhạc với những đặc tính tương phản và chức năng của nó được thể hiện đầy đủ, lần lượt trong 23 vở opera của ông. Như GS, NSND Nguyễn Trung Kiên đã nhận định: Mozart luôn thể hiện là một nhà cải cách dũng cảm, một nhạc sĩ luôn làm giàu nội dung và phương tiện biểu hiện của tác phẩm. Tính cổ điển hoàn chỉnh, cảm xúc trong sáng, vẻ đẹp cao thượng trong tác phẩm với nội dung sâu sắc, đó là giá trị tư tưởng nghệ thuật vĩnh hằng trong âm nhạc của Mozart.
Những lưu ý khi thể hiện đặc điểm âm nhạc thông qua các vở opera của W.A. Mozart
Miêu tả về thiên nhiên kết hợp với sự cao thượng của con người
Mozart đã đưa cả vũ trụ vào trong âm nhạc với những đặc tính tương phản và chức năng của nó được thể hiện đầy đủ lần lượt trong 23 vở opera của ông. Sự trong sáng trong những tác phẩm âm nhạc của ông được thể hiện qua sự miêu tả về thiên nhiên kết hợp với sự miêu tả tính cách cao thượng của con người.
Trong quá trình dàn dựng tác phẩm, sinh viên thường có xu hướng phức tạp hóa hay Việt Nam hóa sự trong sáng trong giai điệu của bản nhạc. Những đặc điểm trong biểu hiện về thiên nhiên cũng như về con người với tính chất trong sáng của nó, có những người tưởng như đây là một sự đơn giản trong quá trình phát triển nghệ thuật biểu diễn thanh nhạc. Tuy nhiên, theo tôi, trong rất nhiều trường hợp (kể cả khi hát các aria của Mozart), sự giản đơn hoàn toàn khác với sự giản dị trong cách thể hiện. Để có thể hát được một giai điệu đơn giản trong các tác phẩm của Mozart, nhiều khi phải luyện tập tới trình độ rất cao trong kỹ thuật bel canto mới có thể đáp ứng được. Bên cạnh đó, việc thể hiện một cách giản dị các tác phẩm của Mozart cũng đòi hỏi người nghệ sĩ thanh nhạc phải có một sự hiểu biết sâu sắc về âm nhạc, phải có trình độ học thuật rất cao.
Mối tương quan và mâu thuẫn trong xã hội
Opera nói chung và opera của Mozart nói riêng đều là một thể loại sân khấu kịch hát âm nhạc. Theo quan điểm của ông, thơ ca trong opera tất yếu phải là cô gái biết nghe lời của âm nhạc. Chính vì vậy, những mối tương quan cũng như những mâu thuẫn giữa các con người, các tầng lớp xã hội trước hết cần được thể hiện qua âm nhạc. Vai trò của âm nhạc có một giá trị rất cao (theo Mozart) so với vai trò của tính kịch trong sân khấu. Tất nhiên, nói như vậy chúng ta cũng cần hiểu theo quan điểm của chủ nghĩa Mác rằng: âm nhạc nghệ thuật có chức năng phản ánh hiện thực xã hội nên những mối quan hệ tương tác nói trên là mối quan hệ qua lại giữa người và người trong xã hội đương thời. Mặt khác, chúng ta cũng cần chú ý tới quan niệm của Mozart trong phản ánh về quá trình tiếp nhận âm nhạc và cố gắng hòa hợp âm nhạc với kịch một cách hữu cơ.
Sự phản ánh những mâu thuẫn trong âm nhạc được thể hiện một cách rõ nét trong nhịp điệu, trong tiết tấu và cường độ âm nhạc. Những sự đối nghịch trong tốc độ, trong độ to, nhỏ của âm thanh... nói chung cần được các giảng viên và sinh viên thanh nhạc lưu tâm để có thể thể hiện tốt được sự đối nghịch trong nội dung tác phẩm.
Trong quá trình sưu tầm tư liệu của bản thân, tôi tạm thống kê các tác phẩm opera của Mozart dưới đây từ những hình thức nhỏ, đơn giản đến những opera đồ sộ, hoành tráng còn được công diễn cho đến tận ngày nay. Mục đích của việc thống kê này giúp cho các em sinh viên có một cái nhìn toàn diện và tổng thể trong quá trình chọn lựa các bản aria trích trong những tác phẩm opera của Mozart. Chúng ta có thể thấy sự lao động nghệ thuật tuyệt vời của Mozart đối với các loại hình opera và âm nhạc sân khấu. Trong những năm 60 của TK XVIII, ông đã sáng tác 4 tác phẩm (1867-1868); trong những năm 70, ông đã sáng tác 9 tác phẩm cho các loại hình opera và âm nhạc sân khấu từ năm 1881-1891 ông đã cho ra đời thêm 10 tác phẩm nữa. Các tác phẩm thuộc loại hình opera và âm nhạc sân khấu của Mozart thật sự là di sản vĩ đại và là một đóng góp vô giá trong lịch sử phát triển của nghệ thuật opera thế giới.
Phân tích những aria điển hình cho các loại giọng
Một số aria cho giọng nữ cao và nữ cao màu sắc (Soprano Coloratura)
Các bản aria sẽ được tôi phân tích đi từ các tác phẩm dễ đến khó, từ năm học đầu cho tới năm cuối bậc đại học:
Aria Zerlina Vedrai, carino trích opera Don Giovanni là bản aria của nhân vật Zerlina trong vở Don Giovanni. Zerlina là một cô gái nông thôn đỏng đảnh chuẩn bị lấy chồng là Mazetto. Tuy nhiên, cô đã bị Don Giovanni với những lời tán tỉnh ngọt ngào và sự hứa hẹn quyến rũ, làm cho chao đảo. Cô có ý định bỏ người chồng tốt của mình mà đi theo kẻ lừa đảo trong tình yêu là Don Giovanni... Nhưng rồi cô đã nhận ra Mazetto mới là tình yêu đích thực của cuộc đời cô.
Bản aria này được Mozart viết ở nhịp 3/8 với chỉ dẫn Grazioso. Aria với quãng giọng cực kỳ thuận lợi cho giọng nữ cao nhẹ.
Ví dụ 1: Âm vực của aria từ g1 - g2
Đây là bản aria mà các giảng viên trong khoa thanh nhạc thường xuyên sử dụng để giảng dạy cho sinh viên đại học năm thứ nhất. Bên cạnh những kỹ thuật cơ bản như legato, Mozart còn sử dụng kỹ thuật hát vuốt giọng - portamento rất đặc trưng. Mọi người thường nghĩ rằng hát vuốt giọng portamento có nghĩa là kéo dài giọng từ nốt này tới nốt khác... Tuy nhiên, hát vuốt giọng portamento có nghĩa là cách kết nối một nốt này tới một nốt khác một cách hoàn hảo.
Ví dụ 2: Phần giai điệu trích từ nhịp 1-16 trong aria Zerlina
Mặc dù aria này có quãng giọng không khó, nhưng để thể hiện hay cũng không phải quá dễ dàng. Giảng viên phải lựa chọn những sinh viên có tính cách phù hợp sẽ thể hiện thành công aria này.
Aria Susanna trích opera Đám cưới Figaro: Hãy đến, anh yêu thương của em là bản aria cuối cùng của vở opera Đám cưới Figaro, một bản aria hay đầy cảm xúc, trong tĩnh lặng của đêm trăng thơ mộng. Bản aria này dành cho giọng nữ cao đại học năm thứ hai. Aria này phải hát với âm thanh cantilena đầy truyền cảm, dịu dàng, mời gọi: Hãy đến với em bạn lòng ơi, Hãy đến em đang gọi chàng/ Từ trời cao ánh trăng đang ngó nhìn mặt đất/ Từ lâu trong vòng tay giấc ngủ ngọt ngào...
Ví dụ 3: Phần giai điệu từ ô nhịp 6 -13 trong aria của Susanna trong opera Đám cưới Figaro
Bản aria này có thể hát cùng với phần recitative, như vậy sẽ hoàn chỉnh hơn. Đây là bản aria không thể bỏ qua trong năm thứ nhất và thứ hai đại học.
Cũng trong vở Đám cưới Figaro còn có cavatina Porgi amor. Cavatina của vai nữ bá tước Rosina, dành cho giọng nữ cao trữ tình. Bản cavatina mở đầu hồi hai, đây là một trường đoạn trong sáng, trữ tình của nữ bá tước Thần tình yêu, hãy cho tôi niềm an ủi (Porgi, amor, qualche ristoro...), thể hiện tình cảm trữ tình và cao thượng, giai điệu đẹp và dàn trải với dàn nhạc đệm tinh tế: Hỡi thần tình yêu/ Hãy cho con niềm an ủi bằng tiếng rên rỉ đau đớn của con/ Hãy mau mau chấm dứt sự khổ đau của con/ Hoặc để cái chết mau đến!
Bản cavatina này dành cho giọng nữ cao trữ tình năm thứ hai đại học, rèn luyện âm thanh cantilena, âm sắc đẹp và đầy cảm xúc.
Trong opera Don Giovanni có ba vai giọng nữ cao. Trong đó có hai vai Donna Anna và Donna Elvira là hai giọng nữ cao kịch tính hoặc nữ cao trữ tình. Chỉ có vai Zerlina là giọng nữ cao nhẹ.
Ví dụ 4: Phần giai điệu từ ô nhịp 70 tới 78 trong aria Zerlina trích opera Don Giovanni
Bản aria này rất có lợi để luyện tập âm thanh đều đặn và sự linh hoạt của giọng. Cần đặc biệt chú ý đoạn passage ở phần kết của aria. Trong phần này, bắt đầu nhịp 6/8, bắt buộc phải giữ tốc độ ở phần đầu. Bản aria ngây thơ nhưng ranh mãnh của Zerlina: Nào, hãy đánh em đi Mazetto, giai điệu đẹp duyên dáng làm mê say lòng người. Khi cho sinh viên hát bản aria này, giảng viên phải giảng giải cho sinh viên hiểu về tính cách của nhân vật Zerlina. Từ đó, toàn bộ âm nhạc phải thể hiện sao cho người nghe mường tượng một nhân vật độc đáo của vở opera, tuy không phải là vai chính nhưng vẫn được tác giả quan tâm. Qua ví dụ âm nhạc đã nêu ở trên, chúng ta thấy rõ rằng trong quá trình giảng dạy cho sinh viên, giảng viên cần chỉ rõ những khó khăn trong luyện tập khi giai điệu thay đổi liên tục giữa âm mi bình (e) và mi giáng (es).
Độ chuẩn xác trong cao độ là một yêu cầu tương đối cao ở bản aria này, đặc biệt khi các “âm treo” xuất hiện liên tục. Một khó khăn khác khi tập bản aria này là ở các quãng nhảy khá xa (g1 - a2). Việc xác định cao độ chuẩn xác ở bước nhảy quãng 9 này là một thử thách đặc biệt khi sinh viên vỡ bài. Cần tập nhiều để tạo thói quen xác định một cách ổn định và chuẩn xác âm g2 khi nhảy quãng. Ngay sau bước nhảy quãng 9 là những bước chạy liên tục móc kép trong nhịp 6/8 ở trên âm vực khá treo, cũng là một thử thách về kỹ thuật đối với sinh viên. Sinh viên phải luyện tập ở tốc độ chậm cho đến khi chuẩn xác về cao độ rồi tăng dần cho đến khi đạt được tốc độ mà Mozart yêu cầu trong bản aria này thì sẽ đạt được hiệu quả tốt nhất khi biểu diễn.
Chính vì độ khó nên aria này gần như là một tác phẩm bắt buộc của năm thứ nhất, thứ hai bậc đại học của giọng nữ cao nhẹ.
Còn hai nhân vật nữ khác, mỗi nhân vật có số phận khác nhau đó là Donna Anna và Donna Elvira. Cả hai nhân vật này đều là giọng nữ cao trữ tình, khỏe hoặc nữ cao kịch tính (dramatic). Những aria của Donna Anna và Donna Elvira đòi hỏi âm lượng tương đối lớn và cảm xúc phức tạp, cho nên chỉ có thể trao cho những sinh viên năm thứ tư hoặc học viên cao học. Họ phải là những giọng hát trữ tình khỏe hoặc kịch tính, không thể trao những aria này cho những sinh viên có giọng hát nữ cao nhẹ.
Trong vở opera Cây sáo thần có nhiều nhân vật nữ, nhưng chỉ có hai nhân vật có những aria được đưa vào giáo trình.
Aria thứ nhất của vai Nữ hoàng đêm tối trong hồi một. Bản aria này có hai phần, phần đầu gồm recitative và phần chậm của aria (Larghetto). Nữ hoàng đêm tối với tình cảm buồn giả tạo, kể lại chuyện con gái của bà đã bị quỷ dữ bắt đi, bà còn nghe vọng lại lời kêu cứu, khẩn cầu vô vọng của con gái.
Ví dụ 5: Phần giai điệu trích trong tác phẩm
Phần hai nhanh, quả quyết (Allegro moderato), Nữ hoàng đêm tối dụ dỗ Tamino cứu con gái của bà và hứa sẽ trao cho chàng nàng Pamina xinh đẹp mãi mãi. Phần thứ hai này có một đoạn kỹ thuật hát passage và staccato rất khó, với hàng loạt nốt ở âm khu cao và kết thúc là nốt F3, đây là một aria thử thách với tất cả các giọng nữ cao màu sắc (Soprano coloratura).
Kỹ thuật passage và staccato đòi hỏi phải có sự rèn luyện đúng phương pháp, đồng thời phải có thêm sự mạnh dạn. Bản aria này không thể trao cho những sinh viên sớm hơn năm thứ tư đại học, mà phải là những giọng nữ cao đã nắm khá vững những kỹ thuật bắt buộc phải có. Thận trọng trong khi trao tác phẩm này cho sinh viên luôn là việc làm không thừa của các giảng viên.
Khi sinh viên được trao học bản aria này, giảng viên cần hướng dẫn sinh viên tập trung luyện tập phần Allegro moderato, đây là phần hát rất khó, khi tập không được vội vàng, phải tập chậm chắc chắn, rồi nhanh dần tới khi đạt được tiêu chí hoàn chỉnh cả về tốc độ và cao độ. Nếu hoàn thiện được phần hát nhanh thì có thể coi như hoàn thành tác phẩm. Phần passage và staccato phải phát âm nhẹ nhàng nhưng kiên định, không thể hoàn thiện được kỹ thuật nếu hát rụt rè, hoặc thiếu tin tưởng vào bản thân. Trước khi cho sinh viên học tác phẩm này, giảng viên cần chuẩn bị trước cho sinh viên tập hát kỹ thuật passage và kỹ thuật staccato, những chuẩn bị này phải trước hàng năm học, khi chưa nắm chắc kỹ thuật này thì chưa thể trao học tác phẩm này. Ngoài ra, còn phải tìm hiểu tính cách của nhân vật để thể hiện cho chính xác và sáng tạo.
Bản aria thứ hai của Nữ hoàng đêm tối: Trong tim ta bùng cháy ngọn lửa khao khát trả thù. Trong bản aria này có bổ sung đoạn hát âm nẩy, nhanh, tinh xảo kiểu Italia. Bản aria chứa đầy sự gay gắt, khao khát trả thù, nên giọng nữ cao màu sắc mềm mại trong sáng sẽ không đáp ứng được tâm trạng hận thù của Nữ hoàng, đó là một tính cách rất đặc biệt của nhân vật này trong vở opera. Cần sự đòi hỏi lớn về cả hai mặt kỹ thuật hát và sự thể hiện cảm xúc của nhân vật. Một bài học kỹ thuật sáng giá đối với giọng nữ cao màu sắc.
Ví dụ 6: Phần giai điệu từ ô nhịp 24 tới 35 trong aria thứ hai của Nữ hoàng đêm tối trích opera Cây sáo thần
Bản aria của Pamina: trong phần mở đầu của cảnh ba sau bản tam ca của ba thiên thần trong tiết tấu menuet dịu dàng là bản aria buồn bã của Pamina: Tất cả đã trôi qua. Đây là hình tượng tuyệt vời về hình thức độc thán trong opera của Mozart. Nhân vật Pamina dành cho giọng nữ cao trữ tình, dịu dàng, tha thiết, trong trắng, phù hợp với trình độ sinh viên năm thứ ba đại học.
Vở opera Vụ bắt cóc thành Seraglio là vở opera hài ba hồi, có hai bản aria nổi tiếng dành cho giọng nữ cao màu sắc.
Bản aria đầu của Contanze: Em đã yêu, em biết hạnh phúc, liên kết với phần recitative, giai điệu tế nhị và những kỹ xảo passage nhiệt thành, xúc cảm. Bản aria thứ hai của Constanze: Ôi! Đối với tôi không có hạnh phúc nữa là cảnh trữ tình lớn đầy nhiệt thành và thơ mộng.
Ví dụ 7: Phần giai điệu trích aria Constanze Allegro
Cả hai bản aria này là hai tác phẩm rất khó. Mozart liên tục sử dụng các kỹ thuật hát passage ở âm khu cao với tốc độ nhanh thể hiện tình cảm nhiệt tình, nồng cháy, âm lượng mạnh. Vì vậy, quá trình hát phải khống chế và sử dụng hơi thở tốt mới giải quyết được yêu cầu về kỹ thuật và nội tâm nhân vật. Những aria này thường dành cho các học viên giọng nữ cao màu sắc ở bậc cao học. Ngoài những kỹ thuật hát rất khó, cả hai aria đều khá lớn nên đòi hỏi học viên phải có sức bền của giọng hát mới đáp ứng được tác phẩm.
Năm năm trước khi bắt đầu sáng tác vở opera Vụ bắt cóc thành Seraglio, Mozart đã mơ ước về âm nhạc sân khấu dân tộc Áo, làm thế nào có thể cạnh tranh được với opera của Italia ở Vienne. Chính ước mơ đó đã thôi thúc Mozart thực hiện vở opera Vụ bắt cóc thành Seraglio. Nhà thơ vĩ đại Goethe đã nói rằng, Mozart đã lấp kín tất cả nhược điểm trong thể loại này. Khi sáng tác vở opera này, có sự trùng lặp với thời gian nhạc sĩ cưới nàng Constanze Weber làm vợ.
Trong quá trình hai năm Mozart đã phải đấu tranh với bố mẹ vợ, những người không thiện chí và mâu thuẫn với cha mình. Những cản trở đó đã được khắc phục bằng một đòn đau: Mozart bắt cóc Constanze từ nhà cha nàng. Không chỉ ở tình huống này, Mozart còn gửi vào âm nhạc cảm xúc thơ ca của tình yêu dịu dàng của mình. Mozart đã để dấu ấn tình cảm riêng tư và đã sáng tạo những nét tính cách người vợ của mình trong vở opera này.
Hai bản aria đều khó như đã trình bày, nhưng các sinh viên năm cuối của bậc đại học và bậc cao học nếu học tập nghiêm túc, kiên trì sẽ đạt được những kỹ thuật rất quý giá, qua đó có thể vượt qua được những aria coloratura khác một cách thuận lợi.
Ví dụ 8: Phần giai điệu trích aria thứ 2 của Constanze Allegro
Ngoài các aria đã đề cập trên, chúng ta không quên ba aria của ba nhân vật nữ độc đáo trong opera Đàn bà là thế của Mozart. Đó là các aria giọng nữ cao trữ tình của vai Despina: Una donna a quindici anni; In umini, in soldati, và aria của Dorabella: E amore un ladroncello. Những aria này dành cho giọng nữ cao trữ tình năm thứ ba đại học.
Trong vở opera Đám cưới Figaro còn một số aria rất có giá trị như: aria của Cherubino mang tâm trạng lo âu, xao xuyến: Tôi không thể kể lại và giải thích được, phác họa hình tượng thơ mộng của chàng thị đồng đáng yêu. Aria của Cherubino ở hồi hai diễn tả tính chất dịu dàng yêu thương thẫn thờ: Trái tim xao xuyến.
Đây là những aria hát với tiết tấu linh hoạt nhanh, những aria này dành cho sinh viên năm thứ hai đại học. Trong opera Đám cưới Figaro vai Cherubine một thị đồng. Dùng giọng nữ cao thể hiện vai chàng thị đồng trẻ tuổi nhưng rất lãng mạn, yêu tất cả phụ nữ trong lâu đài.
Việc phân tích, giới thiệu một số bản aria điển hình được Mozart sáng tác trong những vở opera nổi tiếng của ông không theo thứ tự những năm sáng tác opera đó, mà theo độ dễ, khó của các aria này giúp cho các học viên thanh nhạc có được những hiểu biết về các aria và có được các hướng dẫn khi thể hiện các aria của Mozart trong quá trình học tập tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Thông qua việc học các tác phẩm thanh nhạc của Mozart, sinh viên có thể nắm vững các kỹ thuật cơ bản, từ đó tạo điều kiện thuận lợi khi hát các tác phẩm lãng mạn của TK XIX. Trong phương pháp bel canto với các kỹ thuật chạy lướt, nhiều nốt hoa mỹ, người ca sĩ sẽ không gặp khó khăn khi áp dụng những yêu cầu kỹ thuật trong âm nhạc lãng mạn đặc biệt là những tác phẩm dành cho giọng nữ cao (các tác phẩm của Rossini, Bellini, Donizetti...). Có thể nói rằng, Mozart là tác giả nối giữa hai trường phái muộn tiền cổ điển và cổ điển. Như vậy, những giá trị đích thực trong các tác phẩm thanh nhạc của Mozart đối với đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp các cấp học cần được đào tạo một cách hệ thống, bài bản hơn.
_______________
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Trung Kiên, Lược sử Opera (50 tác phẩm Opera chọn lọc), Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, 2011.
2. Nguyễn Trung Kiên, Phương pháp sư phạm thanh nhạc, Chương trình đại học, Viện Âm nhạc xuất bản, Hà Nội, 2001.
3. Nguyễn Trung Kiên, Những vấn đề sư phạm thanh nhạc, Nxb Âm nhạc, 2014.
4. Nguyễn Trung Kiên, Công trình sưu tầm cấp Bộ về tổng phổ và đĩa CD phần đệm các aria và romance của các tác giả thế giới, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, 2012.
5. Hồ Mộ La, Lịch sử nghệ thuật thanh nhạc phương Tây, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, 2005.
6. Hồ Mộ La, Phương pháp giảng dạy thanh nhạc, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, 2007.
7.Alber Herman, Trans. by Stewart Spencer and ed. by Cliff Eisen, W.A.Mozart, Yale University Press, New Haven and London, 2007
8. Kristi Brown - Montesano, Understanding the Women of Mozart’s Operas (Hiểu về những người phụ nữ trong các vởopera của Mozart), Nxb Đại học California, 2007.
TS NGUYỄN THỊ PHƯƠNG NGA
Nguồn: Tạp chí VHNT số 551, tháng 11-2023