Chức năng giáo dục của gia đình với sự hình thành nhân cách con trẻ

Gia đình là nền tảng của xã hội, bảo đảm tính ổn định, tạo sự bình yên cho toàn xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách của mỗi người. Đặc biệt, gia đình là nơi đầu tiên, cũng là nơi cuối cùng để thực hiện chức năng về giáo dục đối với con trẻ. Một trong những chức năng cơ bản của gia đình đó là chức năng giáo dục. Bài viết đề cập đến chức năng giáo dục của gia đình đối với con trẻ ở phương diện giáo dục đạo đức, truyền thống văn hóa, giới tính và hướng nghiệp

Thực tế lịch sử nhân loại đã chứng minh gia đình là hạt nhân cơ bản của xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội với tư cách là đơn vị sản xuất, đơn vị tiêu dùng cơ bản, là đơn vị tái sản xuất ra bản thân con người, đặc biệt, gia đình còn là nơi đào tạo và giáo dục con người. Gia đình có rất nhiều chức năng quan trọng đối với xã hội loài người, trong đó chức năng giáo dục có vị trí đặc biệt. Nhờ đó, mỗi cá nhân có tính xã hội, nhân văn ngày càng cao. Cùng với chức năng giáo dục của nhà trường và xã hội, giáo dục gia đình là nhân tố cơ bản để mỗi cá nhân hoàn thiện mình.

Trải qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế và đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Văn hóa, xã hội có những bước tiến đáng kể, đời sống nhân dân tiếp tục được nâng cao. Có thể nói, kinh tế thị trường đã kích thích được tư duy sáng tạo của mọi người, khắc phục được tình trạng ỷ lại, bảo thủ trước đây... Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những mặt trái nhất định, là mảnh đất dễ nảy sinh nhiều yếu tố tiêu cực, nhất là đối với gia đình. Tác động của kinh tế thị trường đã can thiệp, phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống, chà đạp lên những khuôn mẫu đạo đức cơ bản của con người. Thêm vào đó, lối sống thực dụng, xa hoa, lãng phí, nhiều tệ nạn xã hội cũng nảy sinh.

1. Nhân cách và yếu tố tác động tới sự hình thành nhân cách

Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, con người là một thực thể sinh học - xã hội. Những yếu tố, đặc điểm sinh học và xã hội trong con người có sự thống nhất biện chứng với nhau để tạo nên bản chất người. Trong tác phẩm Luận cương về Phoi - ơ - bắc, C. Mác viết: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Theo quan điểm này, con người vừa mang bản tính tự nhiên, vừa mang bản tính xã hội, trong đó, bản tính xã hội là phương diện bản chất của con người, là cái để phân biệt con người với các tồn tại khác của tự nhiên. Từ quan điểm này, có thể xác định, nhân cách chính là tổng hợp các yếu tố phản ánh bản chất xã hội của con người, nhưng được hình thành trên cơ sở, điều kiện, tiền đề sinh học của con người, chứ không đối lập, tách rời khỏi tiền đề sinh học của nó.          

Nhân cách của con người còn được biểu hiện sinh động và rõ nét ở những mối quan hệ cũng như liên hệ giữa người với người. Trong đó, những phẩm chất nhân cách của mọi người sẽ không bị hòa tan vào nhau, được biểu hiện một cách tập trung trong hành vi, cử chỉ, thái độ và các mối quan hệ của mỗi người - những nhân tố khách quan quy định nội dung của từng nhân cách. Có thể coi nhân cách như là toàn bộ những phẩm chất tâm lý cá nhân có tác dụng quy định giá trị và hành vi xã hội của con người.

Một đứa trẻ vừa sinh ra chưa có nhân cách, nó được hình thành dần dần với một quá trình khá dài dưới tác động của nhiều yếu tố. Các yếu tố đó được phân thành hai nhóm bao gồm: yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội.

Yếu tố tự nhiên là các yếu tố mang tính bẩm sinh, di truyền và điều kiện tự nhiên nơi con người sinh sống. Yếu tố mang tính bẩm sinh, di truyền là những đặc điểm giải phẫu - sinh lý của cơ thể đã có ngay từ khi đứa trẻ ra đời, hoặc được truyền lại từ bố mẹ. Điều kiện tự nhiên nơi mỗi người sinh ra và lớn lên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành nhân cách của trẻ.

Yếu tố xã hội có vai trò quyết định tới việc phát triển nhân cách con người. Đó là những mối quan hệ xã hội như quan hệ sản xuất, quan hệ gia đình, quan hệ pháp quyền, quan hệ nghề nghiệp, quan hệ làng xã...

Như vậy, nhân cách được hình thành nhờ tác động qua lại giữa môi trường sống (tự nhiên và xã hội) với hoạt động tích cực của mỗi người dựa trên tiền đề thể chất nhất định và được sự chỉ đạo của giáo dục theo hướng mà xã hội yêu cầu, trong đó giáo dục của gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng.

2. Chức năng giáo dục cơ bản của gia đình

Giáo dục đạo đức

Giáo dục đạo đức trong gia đình được hiểu là sự tác động có mục đích, có hệ thống toàn bộ nếp sống của những người lớn tuổi trong gia đình vào ý thức, hành vi của con trẻ, để hình thành cho con trẻ ý thức đạo đức, bồi dưỡng tình cảm đạo đức, rèn luyện thói quen hành vi đạo đức, giúp hình thành nhân cách gốc của mỗi con người. Giáo dục đạo đức có vai trò hết sức quan trọng trong chức năng giáo dục gia đình.

Giáo dục đạo đức trong gia đình hướng tới sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người. Bác Hồ đã từng nói “Có tài mà không có đức là người vô dụng”. Chức năng giáo dục đạo đức đóng vai trò quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách của mỗi người, giúp vun đắp tình yêu thương giữa người với người trong gia đình cũng như trong xã hội. Từ tình yêu gia đình, làng xóm sẽ hình thành nên tình yêu quê hương đất nước. Giáo dục đạo đức còn xây dựng ý thức đạo đức, bồi dưỡng tình cảm đạo đức, rèn luyện thói quen hành vi đạo đức để mỗi thành viên trong gia đình được sống trong môi trường chan chứa tình yêu thương, đậm tính nhân văn. Trong gia đình truyền thống và hiện đại ở Việt Nam, giáo dục đạo đức luôn được coi trọng và đặt lên hàng đầu, đây được xem là cái gốc để giáo dục nhân cách cho mỗi người.

Giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc

Giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc giúp bồi dưỡng, phát huy nhân cách theo chiều hướng tích cực cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ. Lớn lên, chúng hiểu được giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, gia đình để có ý thức lưu giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp ấy.

Giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc là yếu tố quan trọng, bảo đảm cho dân tộc ta tồn tại đứng vững trước tất cả những biến động của lịch sử. Nhờ bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta thể hiện được bản lĩnh lập trường của mình, cái tôi của mình trong giao lưu hội nhập.

Giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc còn là một phương thức hữu hiệu giúp chúng ta nhanh chóng xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Vì vậy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển nước ta hiện nay.

Giáo dục hướng nghiệp

Giáo dục hướng nghiệp được hiểu là các hoạt động nhằm hỗ trợ mọi cá nhân chọn lựa và phát triển chuyên môn nghề nghiệp phù hợp nhất với khả năng của bản thân, đồng thời thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh vực nghề nghiệp ở cấp độ địa phương và quốc gia. Trong gia đình, việc định hướng nghề nghiệp cho con cái là nhân tố hết sức quan trọng. Khi còn ngồi trên ghế của nhà trường, đa số trẻ chưa có những nhận thức đúng đắn về cách lựa chọn nghề nghiệp của mình. Do vậy, nếu không có sự định hướng nghề nghiệp của gia đình sẽ dẫn tới nhiều sự lựa chọn sai lầm về nghề nghiệp: không phù hợp với khả năng của trẻ, không đáp ứng được nhu cầu của xã hội...

Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu để nuôi dưỡng và giáo dục con người. Trong việc định hướng nghề nghiệp, nếu gia đình có những định hướng đúng đắn, sẽ có những kết quả tốt đẹp và ngược lại, nếu định hướng sai lầm hoặc không phù hợp sẽ dẫn tới đổ vỡ hoặc thất bại trong sự nghiệp tương lai của con trẻ. Thất bại này không những ảnh hưởng tới bản thân con trẻ mà còn ảnh hưởng tới gia đình và rộng hơn, cũng có những tác động nhất định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Giáo dục về giới tính

Việc giáo dục giới tính trong gia đình là cần thiết và mang lại hiệu quả hơn. Giáo dục giới tính là dạy cho con hiểu về giới tính, những thay đổi của cơ thể ở tuổi dậy thì để con trẻ không bỡ ngỡ trước những sự thay đổi ấy. Bên cạnh đó, giáo dục giới tính cần giúp các con hiểu rõ về tình dục, tình dục an toàn cũng như các hệ quả của việc sinh hoạt tình dục quá sớm… để tránh được những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra với con trẻ.

 3. Một số giải pháp nhằm phát huy chức năng giáo dục gia đình đối với sự hình thành nhân cách con trẻ

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vai trò của gia đình gắn liền với nâng cao trình độ và năng lực giáo dục con cái của các bậc cha mẹ. Nhiều quan niệm trước đây cho rằng “cha mẹ sinh con, trời sinh tính” hay gia đình chỉ có trách nhiệm sinh con, còn dạy dỗ, giáo dục là trách nhiệm của nhà trường và xã hội. Vì thế không ít gia đình phó thác việc dạy dỗ trẻ cho nhà trường, đoàn đội và xã hội, mối quan hệ giáo dục giữa gia đình - nhà trường - xã hội trở nên lỏng lẻo, không thống nhất được về nội dung, mục đích, phương pháp phối hợp, nhiều khi dẫn đến mâu thuẫn và bài trừ lẫn nhau. Vì thế, để phát huy vai trò của gia đình trong sự nghiệp giáo dục cần nhìn nhận đúng đắn, đầy đủ vị trí, vai trò của gia đình trong giáo dục con cái. Nhận thức đúng là khởi đầu của hành động đúng, nhận thức đầy đủ và đúng đắn vị trí, vai trò của giáo dục gia đình đối với sự hình thành nhân cách trẻ là yếu tố quan trọng trong sự thành công của giáo dục gia đình.

Thứ hai, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục của gia đình đối với con trẻ. Nội dung giáo dục phải toàn diện bao gồm: đạo đức, tri thức, lao động và rèn luyện tính tự lập cho trẻ tới giáo dục thể chất và thẩm mỹ, giáo dục giới tính. Trước hết là trong giáo dục đạo đức, một bộ phận gia đình hiện nay, cha mẹ giáo dục con cái phải ngoan ngoãn, vâng lời theo nguyên tắc trên bảo, dưới nghe hay tuân thủ sự áp đặt một chiều, con cái không được phản đối, cãi lời cha mẹ thì giờ đây sự ngoan ngoãn, vâng lời phải được nhìn nhận lại từ phía cha mẹ (chủ thể giáo dục) và con cái (khách thể giáo dục). Giáo dục học tập cũng là một nội dung rất quan trọng trong giáo dục của gia đình. Muốn trở thành người có ích cho xã hội thì phải học tập. Học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi con người…

Thứ ba, tăng cường sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục nhân cách cho con trẻ. Để giữ được mối liên hệ chặt chẽ giữa các tổ chức này thì cha mẹ phải thường xuyên trao đổi thông tin với thầy cô giáo qua sổ liên lạc và trực tiếp gặp gỡ. Thống nhất về mục đích, nội dung cũng như phương pháp giáo dục như: việc nuôi dưỡng, chăm sóc, kết hợp dạy văn hóa với lý tưởng, niềm tin, đạo đức, lao động, nghề nghiệp, thẩm mỹ, sức khỏe... Về phương pháp, cần gắn quá trình giáo dục với tự giáo dục; kết hợp các hình thức, biện pháp giáo dục đa dạng, phù hợp với lứa tuổi, giới tính. Tăng cường hoạt động và có sự phối hợp giữa hội cha mẹ học sinh và nhà trường, nhằm nắm bắt kịp thời những thông tin về học tập, rèn luyện của học sinh, đồng thời duy trì thông báo giữa gia đình và nhà trường, chú ý phương pháp phản ánh để mang lại hiệu quả giáo dục cao.

Trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. Bởi vậy, trong bất cứ thời đại nào, việc giáo dục trẻ em trong gia đình luôn giữ vai trò quan trọng. Đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới, sự nghiệp CNH-HĐH đã và đang tạo ra những điều kiện và cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội nói chung và gia đình nói riêng, mở ra cơ hội cho phụ nữ thực hiện chức năng giáo dục gia đình. Bên cạnh đó, sự phát triển của kinh tế thị trường thái quá dẫn đến sự lệch chuẩn các giá trị đạo đức, nhân cách, lối sống, làm xuất hiện xu hướng “kinh tế phi đạo đức, kinh tế phi tình cảm”; lối sống phương Tây tác động đã làm đảo lộn hệ giá trị trong tình yêu, hôn nhân và gia đình... Do vậy, cần có định hướng để xây dựng gia đình và thực hiện tốt chức năng giáo dục gia đình trong thời gian tới để góp phần hình thành nên nhân cách của con trẻ.

_______________.

1. Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn, Nguyễn Linh Khiếu, Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Khoa học xã hội, 2002.

2. Ngô Công Hoàn, Tâm lý học gia đình, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, 1999.

3. C.Mác và Ph.Ăngghen, C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

4. Nguyễn Quốc Tuấn, Tìm hiểu các quy phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.

5. Lê Thi, Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.

Tác giả: Phùng Thanh Hoa

Nguồn: Tạp chí VHNT số 431, tháng 5-2020

;