Xây dựng văn hóa Đảng trong giai đoạn hiện nay

Từ khi thành lập đến nay, trải qua hơn 90 năm đồng hành cùng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà Hiến pháp Việt Nam lại khẳng định một cách trang trọng tại Điều 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Chính vì lẽ đó, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt ra yêu cầu xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên - Ảnh: Tuấn Minh

Sau hơn 36 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực mà Đảng ta đạt được, cũng xuất hiện những vấn đề tiêu cực phát sinh. Đó là tình trạng tham nhũng, tiêu cực; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”. Điều này đã làm ảnh hưởng đến tình cảm, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; đe dọa sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Do đó, cùng với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên hay nói khái quát là xây dựng và thực hành văn hóa đảng là yêu cầu cấp bách trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

1. Xây dựng văn hóa Đảng trong bối cảnh hiện nay

Vốn dĩ văn hóa là một khái niệm rộng, chính vì vậy, để hiểu rõ hơn bản chất của khái niệm “văn hóa Đảng” cần phải xem xét một cách toàn diện trên các đặc trưng của “văn hóa” nói chung. Cụ thể đó là:

Một là, tính hệ thống. Mọi hiện tượng, sự kiện của một nền văn hóa đều có sự liên kết, gắn bó mật thiết với nhau. Đó không đơn thuần chỉ là sự lắp ghép cơ học của những yếu tố tri thức riêng lẻ.

Hai là, tính giá trị. Từ “văn” trong khái niệm “văn hóa” mang ý nghĩa là “vẻ đẹp”, “văn hóa” vì vậy có nội hàm là “trở thành đẹp, trở thành có giá trị” (1). Không phải ngẫu nhiên mà trong công cuộc đổi mới đất nước, cùng với sự đổi mới trong tư duy kinh tế và chính trị, Đảng ta đã đề cập đến vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Từ Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khóa VI (1987) về “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới” đã xác định: “Văn hóa là bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa, là một động lực mạnh mẽ, đồng thời là mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” đến Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”… đã cho thấy một quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của văn hóa, về giá trị của văn hóa nói chung đối với xã hội.

Ba là, tính giai cấp. Tương tự các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp như đạo đức, pháp luật, nghệ thuật... văn hóa cũng mang tính giai cấp. “Đảng chính trị cầm quyền và văn hóa đảng cầm quyền cũng tất yếu mang tính giai cấp, biểu hiện trực tiếp ở ý thức hệ, ở tư tưởng chính trị” (2). Văn hóa đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam vì thế cũng mang bản chất của giai cấp công nhân, “lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng” (3).

Bốn là, tính nhân sinh. Đặc trưng này bắt nguồn từ con đường hình thành văn hóa, thông qua các hoạt động thực tiễn của con người tác động vào thế giới tự nhiên mà văn hóa được tạo thành. Hay nói như tác giả Trần Ngọc Thêm, văn hóa là “phần giao” giữa tự nhiên và con người (4). Chính vì là phần giao này mà văn hóa có chức năng giao tiếp, trở thành một phương tiện giao tiếp xã hội giữa các cá nhân với nhau, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác hay giữa nền văn hóa này với nền văn hóa khác.

Văn hóa đảng hay cụ thể hơn là văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, văn hóa của đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam nhằm chèo lái con thuyền cách mạng của dân tộc cập bến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Theo GS,TS Hoàng Chí Bảo, “văn hóa đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam được hiểu là văn hóa ở trong Đảng, trong đời sống chính trị của Đảng, là những giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc, phép ứng xử văn hóa được thể hiện trong các tổ chức đảng, trong quan hệ con người (cán bộ, đảng viên), quan hệ tổ chức. Đó là khoa học - cách mạng - dân chủ và nhân văn ở trong Đảng. Đó còn là quan hệ giữa Đảng với nhân dân, Đảng với Nhà nước, Đảng với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, ở quan hệ quốc tế của Đảng ta với các đảng, các tổ chức, các phong trào chính trị - xã hội trên thế giới” (5). Văn hóa đảng được xem là sức mạnh nội sinh của Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo nên những hiệu ứng xã hội mạnh mẽ, tác động đến sự tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ của Nhân dân. Như vậy, sức mạnh của văn hóa đảng gắn liền với sức mạnh văn hóa dân tộc mà nguồn gốc sâu xa tạo nên sức mạnh ấy chính là lòng dân với triết lý Gốc có vững, cây mới bền - Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” (Chủ tịch Hồ Chí Minh).         

2. Một số đề xuất, giải pháp trong vấn đề xây dựng văn hóa Đảng trong bối cảnh hiện nay

Với bề dày lịch sử lãnh đạo đất nước, đưa dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng được niềm tin vững chắc trong đại đa số quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền, bên cạnh phần đông cán bộ, đảng viên gương mẫu, tiên phong chấp hành mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, được sự tin yêu, tín nhiệm của Nhân dân thì cũng xuất hiện “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước” (6). Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của Đảng và là một trong những nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế cầm quyền của Đảng.

Ngày 16-1-2012, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, trong đó xác định một trong ba vấn đề cấp bách cần tập trung giải quyết. Đặc biệt, văn kiện đã nêu rõ vấn đề “kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng” phải được xem là “trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất”.

Đến Đại hội XII, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2016 “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Trong suốt nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, công tác triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đạt được một số kết quả quan trọng, trong đó đặc biệt đã tạo tiền đề cho việc từng bước xây dựng và hình thành văn hóa Đảng. Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nêu rõ những tồn tại, hạn chế: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”.

Xuất phát từ thực trạng trên cũng như yêu cầu bức thiết của vấn đề xây dựng văn hóa đảng, nhiều văn kiện quan trọng của Đảng cũng đã đặt ra nội dung này xuyên suốt những nhiệm kỳ qua. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc khẳng định để xây dựng và phát triển văn hóa trong xã hội”, trước hết “phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước...”. Đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 khóa XI “về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Đảng ta khẳng định: “Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, vấn đề xây dựng văn hóa trong Đảng được bổ sung với nhiều điểm mới; trong đó, việc đưa công tác xây dựng Đảng về đạo đức đặt ngang tầm với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức: “Tập trung thực hiện mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để “văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”; “phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt ra yêu cầu: “Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh” (7).

Trên cơ sở những yêu cầu nêu trên, trong thời gian tới, nhằm tạo sự chuyển biến hơn nữa về vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với xây dựng và thực hành văn hóa Đảng cần triển khai có hiệu quả một số nội dung:

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp, cán bộ, đảng viên và Nhân dân ngày càng đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hành văn hóa Đảng trong điều kiện đảng duy nhất cầm quyền. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải hiểu được tầm quan trọng của yếu tố văn hóa trong hệ giá trị chân - thiện - mỹ, phân biệt được đúng, sai, lẽ phải, sự công bằng để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Trong đó, các cấp ủy đảng cần triển khai bằng những đề án, chương trình hành động cụ thể và tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng gắn với Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo chỉ đạo và hướng dẫn của Trung ương.

Thứ hai, không ngừng nâng cao vai trò của tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đặc biệt, chú trọng thực hiện hiệu quả các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, để việc nêu gương trở thành hành động tự giác. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời từng khuyên rằng: phải “luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm”, vì “tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”(8). Vì lẽ đó, Đảng ta phải luôn coi việc nêu gương của cán bộ, đảng viên là một trong những phương thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Trong những năm qua, Đảng đã ban hành nhiều quy định về trách nhiệm nêu gương của người cán bộ, đảng viên như: Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”…

Thứ ba, nâng cao hiệu quả công tác phê bình và tự phê bình trong Đảng. Thông qua phê bình và tự phê bình, mỗi cán bộ, đảng viên phát huy ưu điểm, khắc phục những nhận thức, hành vi chưa đúng, có dấu hiệu “lệch chuẩn”, phải hướng vào phê bình việc chứ không phải phê bình người. Bác Hồ từng căn dặn: “Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét” (9).

Thứ tư, xây dựng và thực hành văn hóa Đảng cần gắn liền với thực hiện nếp sống văn minh nơi công sở ở từng cơ quan, đơn vị với những việc làm thiết thực từ nhỏ đến lớn. Điều này được thể hiện thông qua những yếu tố cụ thể như: cảnh quan môi trường; tiết kiệm điện, nước, văn phòng phẩm...; tác phong làm việc; trang phục của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thái độ ứng xử trong đồng nghiệp với nhau và giữa cán bộ, công chức với Nhân dân đến liên hệ công tác.

Thứ năm, xây dựng và thực hành văn hóa Đảng gắn với ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là bài toán phức tạp, trong đó nhấn mạnh đến một số yếu tố căn bản như: văn hóa chính trị, văn hóa ứng xử, văn hóa dân chủ, văn hóa phê bình và tự phê bình... Đây là việc làm đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết qua thực tiễn lãnh đạo, quản lý: “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”(10).

Tóm lại, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cả dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, tạo dựng vị thế và cơ đồ đất nước như hiện nay. Tuy nhiên, đứng trước những nguy cơ, thách thức, ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ, cũng như để không phụ lại niềm tin của Nhân dân, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự khắc phục sai lầm, thiếu sót, khuyết điểm. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam” (11).

________________

1, 4. Trần Ngọc Thêm, Khái luận về văn hóa, trong quyển “Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.23, 25.

3. Điều 4, Khoản 1, Hiến pháp năm 2013.

2, 5. Hoàng Chí Bảo, Xây dựng và thực hành văn hóa đảng trong điều kiện đảng cầm quyền, dẫn theo tapchimattran.vn, 19-12-2021.

6. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

7. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhandan.vn, 24-11-2021.

8. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.129-130.

9, 10. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.272, 327.

11. Trọng Bằng, Đảng và hệ thống chính trị phải tiêu biểu cho lương tri, phẩm giá con người Việt Nam, congly.vn, 24-11-2021.

Tài liệu tham khảo

1. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh - Khoa Sử Trường Đại học Sư phạm TP.HCM, 1992.

2. Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1998.

3. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1996.

NGUYỄN QUANG THÀNH

Nguồn: Tạp chí VHNT số 539, tháng 7-2023

;