Phát triển văn hóa đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế

1. Quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển văn hóa đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế

Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI: Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ một trong các nhiệm vụ trọng tâm là cần phải chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc.

Nhằm tiếp tục triển khai đường lối về phát triển văn hóa đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới, tháng 2-2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 210/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, trong đó khái niệm văn hóa đối ngoại đã được xác định “là tổng thể các hoạt động ứng xử, giao lưu, hợp tác về văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác, khu vực cộng đồng này với khu vực cộng đồng khác, nhằm giới thiệu những tinh hoa và giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú và lan tỏa giá trị văn hóa quốc gia trong cộng đồng quốc tế, hỗ trợ tích cực cho các loại hình đối ngoại khác (chính trị, kinh tế...) để quốc gia tăng cường hợp tác, phát triển...” (1).

Như vậy, văn hóa đối ngoại, trong tư cách là một thuật ngữ khoa học, có thể được xem là “tất cả các hoạt động giao lưu văn hóa của một quốc gia dân tộc hướng vào thế giới... để quốc gia chủ thể tăng cường hợp tác, phát triển bền vững với cộng đồng quốc tế” (2).

Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 tiếp tục khẳng định rõ vai trò, đặc trưng, cũng như quy mô, lộ trình phát triển của văn hóa đối ngoại Việt Nam hiện nay như sau:

“Thứ nhất, văn hóa đối ngoại là một bộ phận quan trọng đặc biệt của nền văn hóa quốc gia, thể hiện sức mạnh nội sinh của dân tộc, có vai trò tích cực trong việc nâng cao vị thế của đất nước, con người và văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước;

Thứ hai, văn hóa đối ngoại Việt Nam là nền văn hóa đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác, cùng phát triển, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng;

Thứ ba, phát triển văn hóa đối ngoại Việt Nam là sự nghiệp toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, trong đó Nhà nước đóng vai trò chỉ đạo, định hướng, hỗ trợ về cơ chế, chính sách và xây dựng thông điệp hình ảnh quốc gia;

Thứ tư, phát triển văn hóa đối ngoại phải đồng bộ, toàn diện, gắn liền với các nhiệm vụ đối ngoại của đất nước, đồng thời phải dựa trên cơ sở phát triển văn hóa trong nước, gắn bó chặt chẽ với quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (3).

Giao lưu, tiếp biến về văn hóa trên phạm vi toàn cầu là quy luật tất yếu khách quan trong phát triển văn hóa, xuất phát từ chính nhu cầu “trao đổi chất”, học hỏi lẫn nhau để phát triển của các nền văn hóa. Thông qua hội nhập quốc tế, các dân tộc có cơ hội tiếp xúc văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa loài người, làm giàu cho văn hóa dân tộc, đồng thời quảng bá, lan tỏa văn hóa dân tộc mình trên toàn thế giới, tạo ra vị thế mới trong phát triển. Trong xu thế toàn cầu hóa, mở cửa, hội nhập vô cùng sôi động và sức mạnh vũ bão của cách mạng công nghiệp 4.0 (với trí tuệ nhân tạo và internet kết nối vạn vật trên khắp hành tinh) hiện nay, sự tác động qua lại, giao lưu, hợp tác và chia sẻ giữa các nền văn hóa khác nhau đang ngày càng được tăng cường mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, năng lực đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế thành công đã được xem là một giá trị văn hóa đối ngoại mới của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới đương đại.

2. Nhận diện về văn hóa đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới, giao lưu hội nhập quốc tế

Từ sau 1986, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, giao lưu, hội nhập quốc tế. Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn, các Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã có uy tín cao trên trường quốc tế, là đối tác tin cậy trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, để có được kết quả đối ngoại như vậy là hành trình không ngừng vươn lên xây dựng và phát triển văn hóa đối ngoại của đất nước dưới sự lãnh đạo đầy sáng tạo của Đảng ta.

Chặng đường hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng là một quá trình nỗ lực bền bỉ của đất nước... Bước vào thời kỳ đổi mới (1986), Việt Nam đứng trước đòi hỏi cấp bách là phải tìm cách thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế bị bao vây cô lập về đối ngoại, tiếp tục phát triển đất nước theo con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Trong bối cảnh đó, trên phương diện đối ngoại, Đảng và Nhà nước Việt Nam nỗ lực đổi mới tư duy, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh vềthêm bạn, bớt thù”, mở rộng và đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, tìm ra khâu đột phá để thoát vòng bao vây cô lập của các thế lực chống đối.

Sau Đại hội VI, đặc biệt là sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (1988) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa VI (1989), Việt Nam đã có những điều chỉnh cơ bản về chính sách đối ngoại. Theo đó, cùng với chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam coi trọng cải thiện quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á, tạo môi trường quốc tế hoà bình, ổn định ở khu vực, thuận lợi cho phát triển đất nước.

Nhằm thúc đẩy tiến trình mở rộng quan hệ đối ngoại, Đại hội VI của Đảng nêu chủ trương chiến lược “mở rộng sự hợp tác và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế”. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế sau sự tan rã của mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (1992) chính thức xác định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế. Chủ trương chiến lược về văn hóa đối ngoại của Đại hội VII tiếp tục được Đại hội VIII khẳng định, bổ sung và đến Đại hội IX phát triển thành quan điểm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển”. Với sự điều chỉnh chính sách đối ngoại để thúc đẩy văn hóa đối ngoại phát triển, Việt Nam đã từng bước phá được thế bị bao vây cấm vận, hóa giải tương đối thành công những khó khăn, bất cập trong quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế, hội nhập ngày càng chủ động, tích cực và sâu rộng với khu vực và thế giới.

Sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đã đưa quá trình hội nhập của đất nước từ cấp độ khu vực (ASEAN năm 1995) và liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998) lên đến cấp độ toàn cầu. Việt Nam đã đảm nhận thành công vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an, cơ quan quyền lực hàng đầu của Liên hợp quốc, nhiệm kỳ 2008 - 2009. Việt Nam cũng đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch ASEAN trong năm ASEAN 2010.

Quan hệ đối ngoại với khu vực và quốc tế không ngừng phát triển. Với nước CHDCND Lào, tình hữu nghị đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện tiếp tục được củng cố và có nhiều bước phát triển quan trọng. Việt Nam đã hợp tác một cách toàn diện, giúp bạn phát triển kinh tế - xã hội với hàng loạt các hạng mục kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa, giáo dục - đào tạo... góp phần duy trì sự ổn định chính trị - xã hội, an ninh của Lào.

Việt Nam đã kịp thời điều chỉnh quan hệ ngoại giao với Campuchia trên cơ sở mới, phù hợp với tình hình đã thay đổi sau khi có giải pháp cho vấn đề Campuchia, phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện, thông qua thương lượng giải quyết những vấn đề còn tồn tại. Hai nước xác lập phương châm chỉ đạo quan hệ là “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài”. Hai bên đã ký nhiều hiệp định hợp tác trong các lĩnh vực, trong đó đáng chú ý nhất và quan trọng nhất là việc Campuchia cam kết công nhận và tôn trọng các hiệp ước, hiệp định biên giới đã ký với Việt Nam những năm 80 của TK XX.

Trong những năm qua, Việt Nam đặc biệt coi trọng tiến trình bình thường hóa và phát triển quan hệ với Trung Quốc. Hai bên đã tiến tới nhận thức chung rộng rãi, chia sẻ sự tương đồng quan điểm đối với nhiều vấn đề quốc tế và khu vực. Hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc đã có chiều hướng tăng trưởng. Hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ.

Bình thường hóa quan hệ với Mỹ cũng là một hoạt động đối ngoại quan trọng của Việt Nam sau chiến tranh. Năm 1994, chính quyền Mỹ hủy bỏ cấm vận chống Việt Nam và tháng 7-1995 bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Sau bình thường hóa, quan hệ Việt - Mỹ có nhiều tiến triển thuận lợi. Quan hệ kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ được thúc đẩy. Hai nước đã ký Hiệp định thương mại năm 2000 và năm 2006, chính quyền Mỹ chính thức ban hành đạo luật về thiết lập Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam, đánh dấu việc bình thường hóa hoàn toàn quan hệ song phương giữa hai nước, tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập WTO, vươn ra thị trường thế giới.

Hàng loạt hoạt động văn hóa đối ngoại với quy mô khác nhau được tổ chức ở nhiều nước trên thế giới. Nổi bật trong các hoạt động văn hóa ở nước ngoài là các sự kiện tuần/ngày Việt Nam ở nước ngoài do Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan và cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài tổ chức. Nhiều chương trình đã có sức lan tỏa lớn, đi vào tâm trí của người dân nước sở tại, trở thành thương hiệu, tiêu biểu như các sự kiện: Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản lần thứ 9 được tổ chức tại Tokyo, Nhật Bản, năm 2016, với nhiều hoạt động sôi nổi, như: âm nhạc, thời trang, biểu diễn nghệ thuật dân tộc và hiện đại. Đặc biệt, có hàng trăm gian hàng, bao gồm quầy ẩm thực và các gian trưng bày hàng hóa, đồ thủ công mỹ nghệ, giới thiệu những điểm du lịch của Việt Nam như các di sản thế giới hay những khu nghỉ dưỡng cao cấp tại Việt Nam. Sự kiện Những ngày Văn hóa Việt Nam tại Philippines 2016 được tổ chức nhân kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines (1976-2016), với rất nhiều chương trình phong phú như: các buổi biểu diễn giao lưu nghệ thuật cùng các nghệ sĩ Philippines tại tỉnh Bulacan; triển lãm Sơn mài và Thổ cẩm Việt Nam, giới thiệu hàng trăm hiện vật gồm các sản phẩm sơn mài, thổ cẩm truyền thống, trang phục áo dài, trang phục một số dân tộc, đặc biệt là bộ sưu tập búp bê trong trang phục các dân tộc, cùng nhiều hiện vật thổ cẩm khác. Thành công của các sự kiện nói trên đã khẳng định chủ trương đúng đắn trong việc triển khai những hoạt động tổng hợp văn hóa, chính trị, kinh tế có trọng tâm, trọng điểm, góp phần thúc đẩy một cách thực chất và hiệu quả quan hệ toàn diện trên mọi lĩnh vực giữa Việt Nam với các nước.

Thông qua các hoạt động văn hóa đối ngoại, Việt Nam đã thành công trong quá trình vận động UNESCO công nhận một loạt các danh hiệu quốc tế, hỗ trợ các địa phương trên cả nước tham gia tích cực vào các hoạt động đối ngoại chung, đồng thời tiếp thu tốt hơn các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương một cách phù hợp và có kết quả tốt đẹp. Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung xây dựng biểu tượng văn hóa quốc gia và một số thương hiệu sản phẩm văn hóa quốc gia; đẩy mạnh việc xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ văn hóa Việt Nam ra nước ngoài, từng bước xây dựng thị phần cho công nghiệp văn hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế; thành lập một số trung tâm văn hóa ở một số khu vực trọng điểm trên thế giới; thiết lập đội ngũ tham tán văn hóa, tùy viên văn hóa tại các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài và hệ thống trung tâm văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài; hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tiếp nhận thông tin và sản phẩm văn hóa từ trong nước; phát huy trí tuệ, tài năng sáng tạo, đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước…

Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã xây dựng và triển khai thành công một số chương trình liên hoan nghệ thuật quốc tế tại Việt Nam, tạo điều kiện cho công chúng Việt Nam được tiếp cận với các nền văn hóa, nghệ thuật đa dạng của thế giới, khẳng định năng lực tổ chức các sự kiện quốc tế của Việt Nam, nâng cao vị thế, uy tín đất nước. Tiêu biểu như: Festival pháo hoa quốc tế Đà Nẵng, Hoa hậu Hoàn vũ thế giới tại Nha Trang, Khánh Hòa, Lễ hội Hoa anh đào Nhật Bản tại Hà Nội... Nhà nước còn tạo nhiều điều kiện thuận lợi để các nước, các tổ chức quốc tế, các cơ quan văn hóa, du lịch nước ngoài giới thiệu đất nước, con người, văn hóa, du lịch tại Việt Nam. Phối hợp triển khai các tuần văn hóa, những sự kiện văn hóa lớn của các nước tại Việt Nam. Tiêu biểu như: Tuần văn hóa Việt Nam - Ấn Độ, tổ chức tại TP.HCM (2017). Đây là sự kiện mở đầu cho chuỗi các hoạt động kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, 10 năm quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ (2017); sự kiện Tuần lễ Pháp ngữ 2017 tại Việt Nam với nhiều hoạt động phong phú, như: liên hoan phim Pháp ngữ, các chương trình biểu diễn ca nhạc, kịch, triển lãm, tọa đàm…

Các hoạt động văn hóa đối ngoại đã góp phần quan trọng vào thành công chung của hoạt động đối ngoại, từng bước nâng cao uy tín, vị thế, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên thế giới, đồng thời tạo điều kiện để nhân dân thế giới, đặc biệt, người Việt Nam ở nước ngoài được tiếp nhận thông tin và sản phẩm văn hóa nghệ thuật tiêu biểu từ trong nước, góp phần giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động văn hóa đối ngoại của Việt Nam còn những hạn chế, bất cập, chẳng hạn như: nhận thức của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân về văn hóa đối ngoại và việc triển khai công tác văn hóa đối ngoại còn hạn chế; sự liên kết, phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức đối ngoại nhân dân, các tổ chức nghệ thuật… còn thiếu đồng bộ. Thời gian qua, chúng ta vẫn chưa có nhiều các chương trình quảng bá văn hóa đối ngoại quy mô lớn tại nước ngoài; các chương trình có chất lượng cao, đặc sắc còn thưa vắng; công tác tuyên truyền về văn hóa đối ngoại chưa được quan tâm thích đáng, chưa tạo được sự lan tỏa rộng rãi.

3. Phương hướng và giải pháp phát triển văn hóa đối ngoại Việt Nam

Hiện nay, trên phạm vi toàn cầu, những thách thức lớn đang diễn ra ngày càng phức tạp như sự lan tràn của chủ nghĩa khủng bố, các vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo, vấn đề di cư, tị nạn… đang đặt ra nhiều câu hỏi lớn trong phát triển văn hóa của từng quốc gia, dân tộc. Hoàn cảnh này buộc các quốc gia, dân tộc phải lựa chọn cho mình một thái độ ứng xử, một chính sách phát triển mới về văn hóa để đạt tới mục tiêu phát triển chung.

Trước tình hình thế giới có nhiều biến đổi phức tạp, khó lường như vậy, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nêu rõ về đường lối đối ngoại của Việt Nam như sau: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển…”(4). Quan điểm văn hóa đối ngoại của Việt Nam là: “Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa” (5). Nhìn chung, trong tình hình mới, chiến lược xây dựng, phát triển văn hóa đối ngoại Việt Nam tầm nhìn 2030 cần phải xem xét thực hiện một số giải pháp sau đây:

Thứ nhất, cần tăng cường nâng cao lý luận và nhận thức về văn hóa đối ngoại trong toàn hệ thống chính trị, trong mọi tầng lớp nhân dân; tiếp tục làm cho quan điểm đường lối phát triển văn hóa đối ngoại của Đảng và Nhà nước thấm sâu vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam, lan tỏa những hình ảnh đẹp của văn hóa và con người Việt Nam trong các hoạt động đối thoại quốc tế, nâng cao uy tín của quốc gia, dân tộc, phát triển sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận về văn hóa đối ngoại của đất nước trong bối cảnh mới đang diễn ra rất phong phú và phức tạp. Cần tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm khoa học về văn hóa đối ngoại Việt Nam và thế giới, nghiên cứu trao đổi những vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như những kinh nghiệm quý báu của nhân loại về văn hóa đối ngoại.

Thứ ba, quán triệt sâu sắc quan điểm đường lối của Đảng trong xây dựng, điều chỉnh và hoàn thiện cơ chế chính sách về văn hóa đối ngoại; xây dựng các bộ tiêu chí ứng xử đối ngoại mang bản sắc văn hóa Việt Nam, có thể vận dụng cho mọi cơ quan tổ chức, địa phương, ngành, lĩnh vực và đến tận từng cá nhân công dân Việt Nam khi có sự tiếp xúc với các lĩnh vực có yếu tố nước ngoài (trong nước cũng như ngoài nước).

Thứ tư, xây dựng cơ chế phối hợp giữa ngành ngoại giao với các ngành, lĩnh vực khác, nhằm phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt động văn hóa đối ngoại, tích cực triển khai Chiến lược văn hóa đối ngoại, văn hóa du lịch phù hợp với từng giai đoạn, tầm nhìn 2018 - 2030.

Thứ năm, phát triển văn hóa đối ngoại trong hội nhập toàn cầu phải được thực hiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những giá trị của văn hóa nhân loại, để đảm bảo vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa loại bỏ tâm lý sùng ngoại, xem nhẹ văn hóa dân tộc truyền thống. Cần chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; tổ chức các hoạt động văn hóa đối ngoại theo hình thức xã hội hóa với sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; tăng cường các hoạt động giao lưu nhân dân, đặc biệt là giao lưu biên giới. Việc tiếp thu những giá trị văn hóa của nhân loại phải dựa trên nền tảng giá trị văn hóa dân tộc được hun đúc, chọn lọc và lưu truyền trong suốt 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước.

Thứ sáu, trong phát triển văn hóa đối ngoại, cần có biện pháp ngăn ngừa và đấu tranh chống lại một cách hiệu quả sự xâm nhập các yếu tố phản văn hóa, tích cực bảo vệ các giá trị văn hóa dân tộc. Trong hiện tại và tương lai, chúng ta cần phải phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn nghệ sĩ người Việt Nam ở nước ngoài trong việc tham gia phát triển văn hóa của đất nước, trở thành cầu nối quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam; chú trọng truyền bá văn hóa Việt Nam, dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam; tiếp tục xây dựng một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa dân tộc trên toàn cầu. Đó chính là những hoạt động tích cực để phát triển văn hóa đối ngoại Việt Nam trên những tầm cao mới, hướng tới sự phát triển bền vững của đất nước.

_______________

1, 3. Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội, 2015.

2. Lê Thanh Bình (chủ biên), Giáo trình quan hệ công chúng chính phủ trong văn hóa đối ngoại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.15.

4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.34-35, 130.

 

Tác giả: Nguyễn Toàn Thắng

Nguồn : Tạp chí VHNT số 411, tháng 9 - 2018

;