Trong “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6-5-2009 đã đặt ra nhiệm vụ ứng dụng khoa học - công nghệ trong lĩnh vực di sản văn hóa (DSVH). Bộ trưởng Bộ VHTTDL cũng đã phê duyệt “Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2013-2020, tầm nhìn 2030” (tại Quyết định số 4227/ QĐ - BVHTTDL ngày 29-11-2013) với nội dung: Ứng dụng công nghệ thông tin và tự động hóa trong các lĩnh vực DSVH, nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, thư viện; Ứng dụng công nghệ hệ thống GIS trong quản lý và khai thác thông tin về DSVH gắn với phát triển du lịch; Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, ứng dụng công nghệ số hóa trong công tác bảo tồn DSVH...
Và, thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4-5-2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0), Bộ VHTTDL đã xây dựng kế hoạch và nhiệm vụ trọng tâm của ngành để triển khai phù hợp với xu thế phát triển của cuộc CMCN 4.0. Tiếp theo đó, Bộ trưởng Bộ VHTTDL đã ban hành “Định hướng và danh mục sản phẩm chủ lực của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2017-2020” (1), trong đó, DSVH được ưu tiên ứng dụng khoa học, công nghệ để xây dựng quy trình xử lý, bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; Xây dựng hệ thống trưng bày và thuyết minh tương tác trong bảo tàng; Ứng dụng công nghệ vào quy trình xử lý, bảo quản hiện vật trong bảo tàng; Xây dựng cơ sở dữ liệu ngành DSVH. Như vậy có thể thấy, những chuyên ngành khoa học công nghệ mới trong cuộc CMCN 4.0 có vai trò quan trọng trong mọi hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH Việt Nam, từ những nhiệm vụ quản lý chung đến các hoạt động chuyên môn, nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu và phát huy giá trị DSVH.
1. Khoa học - công nghệ với việc bảo vệ, phát huy giá trị DSVH
Hỗ trợ trong công tác quản lý ngành
Hệ thống dữ liệu lớn về DSVH: Hệ thống dữ liệu lớn về DSVH khi được hình thành và phân tích sẽ cung cấp bức tranh toàn cảnh về DSVH quốc gia, đo lường được những rủi ro tác động đến DSVH như thiên nhiên, môi trường hay con người; Hệ thống dữ liệu lớn về DSVH sẽ là cơ sở hữu ích để các cơ quan hoạch định chính sách nghiên cứu, xây dựng các quy định, quy phạm pháp luật quản lý ngành một cách chủ động, phù hợp với sự phát triển của xã hội. Hệ thống dữ liệu lớn về DSVH sẽ thúc đẩy các hoạt động ngoại giao, công nghiệp và sáng tạo văn hóa nhằm khai thác nguồn lợi kinh tế từ DSVH (phim ảnh, âm nhạc, trình diễn, hoạt động truyền thông, thiết kế sáng tạo, xây dựng thương hiệu cho các doanh nghiệp...). Đồng thời, ở cấp quản lý vĩ mô, dữ liệu lớn có thể hỗ trợ việc hoạch định chính sách nhằm phân bổ, tiết giảm chi phí cho các hoạt động, giảm thời gian hành chính, tối ưu các hoạt động dịch vụ phục vụ công chúng, đồng thời hỗ trợ con người đưa ra những quyết định đúng và hợp lý hơn trong quá trình bảo vệ và phát huy giá trị DSVH.
Ở cấp quản lý trực tiếp các DSVH, dữ liệu lớn giúp người quản lý dễ dàng tạo lập các quy định phân quyền truy cập vào dữ liệu này để phục các hoạt động nghiên cứu, tổ chức trưng bày, quảng bá, các hoạt động giáo dục DSVH. Hiện tại, để hình thành được một hệ thống dữ liệu lớn về DSVH cấp quốc gia cần sự chung tay của tất cả các cơ quan quản lý, các viện nghiên cứu và từ các đối tác doanh nghiệp nhằm từng bước hoàn thiện các hệ thống dữ liệu riêng lẻ, dần dần liên kết dữ liệu tập trung để tạo được khối dữ liệu chung, với những phần quyền và khai thác phù hợp, hiệu quả. Cơ bản trong lĩnh vực DSVH, dữ liệu lớn có thể được hình thành từ các hệ thống dữ liệu riêng như: Cơ sở dữ liệu về bảo tàng (dữ liệu từ phần mềm Quản lý thông tin bảo tàng; phần mềm quản lý hiện vật bảo tàng); Cơ sở dữ liệu về di tích, danh lam, thắng cảnh (dữ liệu từ Phần mềm quản lý di tích quốc gia); Cơ sở dữ liệu về DSVH phi vật thể; Bản đồ số lễ hội Cơ sở dữ liệu về bảo tàng; Cơ sở dữ liệu về trình diễn truyền thống; Một số phần mềm quản lý về DSVH của các tỉnh, thành phố hoặc các viện nghiên cứu, các trường đại học.
Quản lý di tích với ứng dụng GIS: Hệ thống thông tin địa lý (Geographic Information System - GIS) là một trong những công cụ có vai trò - thông qua các chức năng thu thập, quản lý, truy vấn phân tích và tích hợp các thông tin thuộc tính (thông tin mô tả) gắn kết với thông tin không gian - thông tin bản đồ Xây dựng cơ sở dữ liệu địa lý (GEO-database) phục vụ quản lý và bảo tồn DSVH, đặc biệt là các khu di tích có quy mô rộng lớn. Hiện nay, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế là một đơn vị ứng dụng công nghệ GIS sớm và đã có những kết quả nhất định. Với công nghệ này, việc khoanh vùng bảo vệ di tích thuộc hệ thống di tích cố đô Huế do trung tâm quản lý sẽ được quản lý, bảo vệ, kiểm soát kịp thời khi có sự cố. Cơ sở dữ liệu thu thập được thông qua GIS, sau khi được phân tích sẽ hỗ trợ các nhà quản lý nắm bắt tình hình các hộ dân sống trong khu vực một cách hiệu quả và kịp thời nhất. Từ đó, các nhà quản lý có thể đưa ra các giải pháp điều tiết kịp thời, không để ảnh hưởng đến cảnh quan di tích, đồng thời động viên người dân có ý thức bảo vệ cảnh quan môi trường xung quanh, không gây hại đến công trình kiến trúc. Kết quả đáng ghi nhận là khi “Ứng dụng công nghệ GIS trong quản lý quần thể di tích cố đô Huế - nhìn từ trường hợp di tích lăng Minh Mạng”, đề tài khoa học của Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã đoạt giải Khuyến khích - giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam (Vifotec) năm 2014 (2).
Di tích Angkor của Campuchia cũng là một trong những di tích ứng dụng công nghệ GIS một cách hiệu quả (3). Với sự hỗ trợ của các đối tác quốc tế, công nghệ GIS thu thập các thông tin hình ảnh thực của di tích, phân tích và tạo các báo cáo chuyên môn, đồng thời hỗ trợ các hoạt động giới thiệu di tích như ứng dụng thực tế ảo về di tích, mô hình 3D… Đặc biệt, công nghệ GIS có thể hỗ trợ cơ quan quản lý di tích Angkor trong việc theo dõi mọi biến động của các kết cấu đá của các di tích đền, tháp của di tích này, độ chính xác của các biến động có thể được tính theo mức milimét và kéo dài nhiều năm.
Phối hợp hiệu quả hơn với ngành Du lịch: Ứng dụng công nghệ có thể hữu ích trong việc giảm xung đột giữa các mục tiêu bảo tồn và khai thác DSVH. Nói cách khác, nó tạo ra những tác động tích cực đến sự bền vững của DSVH. Ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ việc quản lý bảo tồn hiệu quả, tuy nhiên vẫn thỏa mãn các nhu cầu tham quan, trải nghiệm của đông đảo nhân dân.
Dữ liệu số về DSVH khi được chia sẻ đến các đơn vị tổ chức du lịch sẽ tạo thuận tiện cho hoạt động xây dựng các tuyến tham quan du lịch hiệu quả, tính toán các hoạt động hấp dẫn nhất cho người đi du lịch để trải nghiệm với DSVH một cách hấp dẫn nhất. Sự hỗ trợ từ các hoạt động như tính toán khoảng cách đi, đến di tích, hay đặt trước thời gian đến tham quan, đặt trước các dịch vụ thuyết minh, giới thiệu di tích hoặc chia sẻ các hình ảnh đẹp về di tích để các bên tham gia cùng quảng bá điểm đếm hiệu quả, đem lại lợi ích kinh tế.
Công nghệ thông tin mới giúp việc trao đổi thông tin giữa cơ quan quản lý DSVH, đơn vị tổ chức du lịch và khách du lịch được nhanh chóng và trực tiếp, giảm thiểu các tác động từ hoạt động khảo sát, nghiên cứu tuyến điểm của các đơn vị tổ chức du lịch. Hỗ trợ việc giám sát an toàn, an ninh cho khách tham quan tại di tích, danh lam thắng cảnh, góp phần giảm thiểu các rủi ro do thiên tai hoặc cháy nổ tại điểm tham quan. Mặt khác, ứng dụng công nghệ giúp cơ quan quản lý DSVH tiếp nhận những phản hồi từ khách du lịch để kịp thời cải thiện, đổi mới các dịch vụ tại điểm di tích, danh lam thắng cảnh.
Đối với các di tích hoặc các điểm di tích cần được sự giám sát nghiêm ngặt việc tham quan, ví dụ như tại Phong Nha - Kẻ Bàng, hay các di tích có nguy cơ hự hại cao, các ứng dụng tham quan thực tế ảo phần nào giúp thỏa mãn nhu cầu khách tham quan, hơn nữa còn đưa DSVH đến với đông đảo bạn bè quốc tế, góp phần giới thiệu tiềm năng du lịch của Việt Nam.
Ứng phó với biến đổi khí hậu: DSVH vốn rất dễ bị tổn thương trước những tác động của các yếu tố tự nhiên, đặc biệt là biến đổi khí hậu. Ngày 16 đến 17-3-2006 tại Paris, Ủy ban Di sản Thế giới đã tiến hành phiên họp lần thứ 29 đã ra thông báo ghi nhận: Tác động của biến đổi khí hậu đang và sẽ ảnh hưởng ngày càng nhiều đến các di sản thế giới, cả di sản thiên nhiên và DSVH (4). Để giảm thiểu tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu với DSVH, rất cần sự quan tâm và phối hợp của nhiều cơ quan nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong giám sát, cảnh báo và phòng ngừa các rủi ro có thể xảy ra với các tác động của biến đổi khí hậu.
Tác động của biến đổi khí hậu không chỉ ảnh hướng đến các công trình DSVH, nó còn ảnh hưởng đến môi trường thực hành của các DSVH phi vật thể và môi trường bảo quản của các hiện vật DSVH. Ứng dụng khoa học công nghệ giúp cơ quan quản lý, nhà nghiên cứu thu thập thông tin, xây dựng báo cáo đánh giá quá trình biến đổi của môi trường gắn với DSVH để đưa ra các phương án cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH trong tương lai.
Bảo quản, bảo tồn DSVH
Bảo tồn phòng ngừa: Khoa học công nghệ với các ứng dụng giám sát thông minh đã hỗ trợ tích cực trong quá trình bảo quản, phòng ngừa cho các DSVH. Hỗ trợ trong quá trình bảo vệ, an toàn an ninh tại di tích, bảo tàng hoặc kiểm soát môi trường trưng bày trong bảo tàng và di tích: các thiết bị cảm ứng nhiệt, độ ẩm và các thiết bị quan sát ban đêm là các ứng dụng vô cùng hữu ích cho việc kiểm soát môi trường trong trưng bày, kể cả khi có khách tham quan lẫn khi đóng cửa; kiểm soát an ninh, an toàn cho hiện vật, đảm bảo không bị di chuyển ngoài chủ đích.
Tu bổ di tích và bảo quản hiện vật: Công nghệ nano là một trong những công nghệ mới có các tính năng vượt trội hoặc phân tích các chất liệu ở quy mô siêu nhỏ nanomet (nm, 1 nm = 10−9 m). Trong lĩnh vực bảo tồn DSVH, các nhà khoa học đã thử nghiệm công nghệ nano trong việc bảo tồn các di tích đá tại Italy hoặc phục chế tranh sơn dầu... Công nghệ nano trong bảo tồn, phục chế DSVH được đánh giá là sẽ thỏa mãn các yêu cầu của ngành Bảo tồn di tích, như: tôn trọng môi trường; không làm hỏng bề mặt gỗ hoặc vật liệu đá của các công trình cổ; không làm ảnh hưởng đến đặc tính cấu trúc của vật liệu tạo thành công trình cần bảo quản; không tạo ra bất kỳ sự thay đổi màu nào của vật liệu được bảo quản/ phục chế; gắn kết tốt và đảm bảo mức độ hợp nhất cao giữa các vật liệu cũ và mới (5).
Phát huy giá trị DSVH
Trưng bày, giới thiệu: Công nghệ mới làm tăng tính hấp dẫn trong việc giới thiệu các nội dung DSVH, giúp khách tham quan biết đến các di tích, danh lam thắng cảnh, lễ hội mà không cần đến tận điểm di tích, lễ hội đó. Bảo tàng ảo hoặc trưng bày tương tác ảo là kỹ thuật sử dụng công nghệ phần mềm không gian ảo (3D), giúp người xem tham quan trưng bày với hình ảnh 3D gần như thật.
Khách tham quan có xu hướng không còn chỉ đứng xem các hiện vật, đọc các chú thích một cách thụ động, mà còn được khuyến khích cảm nhận kỹ hơn các hiện vật (chất liệu, mùi…), đặt các câu hỏi hoặc trao đổi với nhau. Các ứng dụng ngày nay cũng hỗ trợ hình thức trưng bày tương tác khi cung cấp cho khách tham quan các trải nghiệm thực về khí hậu, động đất hoặc sự hiểu biết rõ hơn về cách thức sử dụng các dụng cụ cổ xưa… Việc ứng dụng các công nghệ trong các trưng bày tương tác đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà nghiên cứu trưng bày và các nhà phát minh, sáng chế khoa học.
Hoạt động thuyết minh: Thuyết minh tự động không chỉ giảm áp lực cho người thuyết minh, giới thiệu mà còn đem đến những trải nghiệm cho khách tham quan tìm hiểu chuyên sâu về DSVH. Hình thức này còn có thể tích hợp nội dung giới thiệu về DSVH thông qua các thiết bị cá nhân di động, hỗ trợ hoặc thay thế việc cho người thuyết minh trực tiếp giới thiệu với khách tham quan.
Quảng bá, truyền thông: Vai trò của truyền thông là rất quan trọng, truyền thông số giúp chuyển tải thông tin một cách nhanh nhất, trực tiếp từ bảo tàng, di tích đến khách tham quan. Hoạt động quảng bá, truyền thông số nhằm cung cấp đến công chúng những thông tin đáng tin cậy về một sản phẩm văn hóa có chất lượng cao. “Sản phẩm văn hóa” ở các bảo tàng có thể là các trưng bày thường xuyên, trưng bày chuyên đề, các hoạt động giáo dục, chương trình học tập… hoặc là các nhà hàng, cửa hàng lưu niệm có uy tín với các sản phẩm độc đáo.
Lưu giữ cho thế hệ mai sau: Số hóa các tư liệu, hiện vật, hình ảnh, phim sẽ là dữ liệu cho các hoạt động chuyên môn, đồng thời lưu giữ lâu dài cho các thế hệ sau. Tư liệu thông tin số về DSVH không đơn giản chỉ là việc giới thiệu lại các DSVH (trên internet), mà quan trọng hơn, đó là quá trình chuyển hóa các thông tin để chúng ta có thể nhận biết và khai thác các thông tin về DSVH qua các hình thức và phương tiện như: cơ sở dữ liệu số, các sản phẩm 3D về di sản, các trang web, thư điện tử, ảnh số, phim, DVD, CD-Rom, MP3…
Mặt khác, chính định dạng số về DSVH và các sản phẩm được hình thành trong quá trình bảo vệ và phát huy giá trị DSVH cũng dần trở thành DSVH số. Vì vậy, năm 2003, UNESCO đã ban hành Hiến chương bảo tồn di sản số (6), trong đó giải thích rõ: “Di sản số là những nguồn kiến thức hoặc cách diễn đạt độc đáo của con người. Nó bao gồm các nguồn kiến thức văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật, pháp luật, y tế và các hình thức thông tin khác được tạo nên nhờ công nghệ số, hoặc chuyển sang hình thức số, từ những nguồn tương tự”.
Tạo ra thêm giá trị kinh tế cho các DSVH: Công nghệ hiện đại giúp hình thành nên những giá trị mới cho các DSVH thông qua các sản phẩm số về di tích, lễ hội, hiện vật, trưng bày, các sản phẩm giới thiệu, quảng bá định dạng số. Bổ sung những cách thức tìm hiểu mới, bổ sung phương thức cung cấp thông tin, mở rộng không gian của bối cảnh xã hội cho các sưu tập hiện vật, đem lại những trải nghiệm lịch sử của hiện vật cho khách tham quan, mang lại lợi ích kinh tế nhằm tái đầu tư cho công tác bảo tồn DSVH.
Công nghệ mới dễ dàng hình thành các kênh trao đổi thông tin giữa bảo tàng và khách tham quan. Đồng thời lĩnh vực DSVH là nguồn tài nguyên quan trọng cho các ngành công nghiệp văn hóa, các ứng dụng trò chơi trực tuyến, âm nhạc, điện ảnh hay các sản phẩm quảng bá thương mại...
2. Nhiệm vụ của ngành DSVH trong thời gian tới là phát huy tốt các ứng dụng khoa học - công nghệ
Ứng dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ là xu hướng tất yếu, đồng thời cũng là thách thức trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị DSVH. Để tiếp cận được với những công nghệ mới và ứng dụng một cách hiệu quả trong các hoạt động, cần có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp trong thời gian dài. Tuy nhiên, các cơ quan quản lý DSVH cần chủ động xây dựng các kế hoạch áp dụng công nghệ mới trong hoạt động của mình. Cơ bản cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực, đảm bảo cán bộ trong ngành có hiểu biết về công nghệ. Cập nhật xu hướng công nghệ và ứng dụng các phần mềm hiện đại thành thạo. Ứng dụng các quan điểm hiện đại vào quá trình nghiên cứu, xây dựng các ứng dụng công nghệ vào bảo vệ và phát huy giá trị DSVH.
Thứ hai, xây dựng và quản lý dữ liệu tập trung phục vụ cho công tác kiểm kê, bảo quản và đặc biệt phục vụ công tác nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu DSVH được thuận tiện, sáng tạo. Từng bước số hóa tất cả những tư liệu, bộ sưu tập và nội dung trưng bày, xây dựng cơ sở dữ liệu lớn của ngành. Đây sẽ là cơ sở cho việc phát triển các nội dung số hiệu quả, cơ sở để bảo quản, phục hồi hiện vật trong trường hợp bị hư hại, mất mát, cơ sở để xây dựng các chiến lược quản lý và vận hành bảo tàng.
Thứ ba, thực hiện việc đánh giá các hoạt động ứng dụng công nghệ, đồng thời khảo sát nhu cầu của khách tham quan một cách khoa học để thực sự hiểu rõ hiệu quả các hoạt động của đơn vị, hiểu rõ lý do khách tham quan đến và không đến với DSVH. Từ đó, với sự hỗ trợ của công nghệ, hình thành mối quan hệ tốt với công chúng, mở rộng nhóm công chúng, phân nhóm công chúng theo các tiêu chí riêng để phục vụ tốt hơn. Dần nâng cao vị thế của các thiết chế văn hóa trong quá trình tham gia phát triển kinh tế, xã hội.
Thứ tư, đẩy mạnh việc nghiên cứu, cập nhật công nghệ mới có thể áp dụng tại bảo tàng, di tích (3D, công nghệ cảm ứng tương tác, công nghệ thực tế ảo (Virtual Reality - VR), thực tế tăng cường (Augmented Reality - AR), công nghệ lữu trữ điện toán đám mây...). Từ những kiến thức căn bản về công nghệ, mới có thể đặt ra yêu cầu cho đơn vị cung cấp công nghệ có được các sản phẩm phù hợp, giúp chuyển tải tốt hơn những nội dung của DSVH tới công chúng.
Thứ năm, chủ động tìm kiếm nguồn tài chính thông qua các hoạt động xây dựng thương hiệu, thu hút sự quan tâm của các cơ quan quản lý, các nhà tài trợ, các công ty và các cơ quan phi chính phủ. Đặc biệt, từ chính những đối tác công nghệ thông tin lớn hiện nay, sự hợp tác “đôi bên cùng có lợi” giúp cho việc trải nghiệm của khách tham quan tại DSVH thêm thú vị.
Thứ sáu, xây dựng mạng lưới hợp tác, chia sẻ giữa những cơ quản quản lý DSVH hoặc giữa các đơn vị này với các đối tác công nghệ sẽ là kênh kết nối đem lại các kiến thức về công nghệ mới, cơ hội hợp tác và những kinh nghiệm thực tiễn hữu ích.
3. Kết luận
Khoa học - công nghệ từng bước thay đổi cách thức quản lý, vận hành của các thiết chế văn hóa trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ vừa là cơ hội vừa là thách thức đối cho các cơ quan quản lý DSVH, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như nước ta. Do vậy, để thực sự ứng dụng hiệu quả lợi thế của khoa học - công nghệ, chúng ta cần nghiên cứu kỹ trước khi lựa chọn các ứng dụng công nghệ hiện đại đảm bảo sự hoạt động lâu dài và hiệu quả trong việc bảo vệ và phát huy giá trị DSVH. Các ứng dụng khoa học, công nghệ trong CMCN 4.0 là rào cản hay là cơ hội phát triển, thực sự hữu ích cho hoạt động của các đơn vị và góp sức vào công cuộc phát triển kinh tế, xã hội hay không hoàn toàn phụ thuộc vào nỗ lực đổi mới của các đơn vị.
_______________
Tài liệu tham khảo
1. Quyết định 4610/QĐ-BVHTTDL ngày 28-11-2017 của Bộ trưởng Bộ VHTTDL, Về việc định hướng danh mục sản phẩm chủ lực của ngành VHTTDL giai đoạn 2017-2020.
2. dangcongsan.vn
3. gisresources.com
4. UNESCO, World Heritage Centre, 2007.
5. Nanotechnology for cultural heritage (kỹ thuật nano cho DSVH), Santina Di Salvo Department of Architecture (DARCH), Đại học Palermo, Italy, International Journal of Science, Technology and Society, 2014.
6. dsvh.gov.vn
Tác giả: Lê Thị Thu Hiền
Nguồn: Tạp chí VHNT số 432, tháng 6-2020