Hôn nhân của người Mông Đen ở xã Tà Xùa, Bắc Yên, Sơn La

Tà Xùa là xã vùng cao thuộc huyện Bắc Yên, Sơn La, có diện tích tự nhiênlà 4.138,61 ha, với 501 hộ, 3.049 nhân khẩu, thành phần chủ yếu là dân tộc Mông chiếm 99,57% còn lại là dân tộc Kinh chiếm 0,43%. Người Mông ở Tà Xùa bao gồm các nhóm địa phương Mông Đen, Mông Trắng và Mông Hoa, trong đó nhóm Mông Đen với các dòng họ Mùa, Lù, Phàng, Giàng... chiếm 48,4%,cư trú tập trung tại 4 bản Tà Xùa A, Tà Xùa C, Mống Vàng và Chung Trinh. Do tập quán sống khép kín, kinh tế vẫn mang nặng tính tự cấp tự túc, ít giao lưu, trao đổi với các tộc người khác, nên người Mông nơi đây vẫn còn gìn giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống phong phú và đặc sắc, trong đó có phong tục hôn nhân. Dựa trên tư liệu điền dã, bài viết trình bày các khía cạnh liên quan đến hôn nhân của nhóm Mông Đen, từ đó cho thấy sự khác biệt trong phong tục với các nhóm Mông khác ở huyện Bắc Yên.

 

     1. Một vài quan niệm về hôn nhân

     Quan niệm trai lớn lấy vợ, gái lớngả chồng,người Mông Đen ở Tà Xùa cho rằng hôn nhân trước hết nhằm duy trì nòi giống, đảm bảo sự phát triển của gia đình, dòng tộc. Hôn nhân còn nhằm mục đích bổ sung sức lao động và tái sản xuất sức lao động. Điều này giải thích vì sao, trước đây độ tuổi kết hôn của người Mông thường rất sớm. Trong hôn nhân trước đây tồn tại hình thức ở rể khi gia đình bố mẹ vợ không có con trai nối dõi hoặc chỉ có duy nhất một cô con gái, theo đó hôn nhân còn là chỗ dựa, là nơi nương tựa lúc tuổi già. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội và sự tự do trong hôn nhân, họ dựa trên tình yêu và sự hòa hợp của hai người.

     Nguyên tắc trong hôn nhân người Mông Đen làngoại hôn dòng họ, nội hôn tộc người. Họ tin rằng cứ cùng họ thì đều là anh em một nhà, bởi vậy, không được phép lấy nhau. Họ chỉ lấy người cùng dân tộc với nhau bởi cùng có sự thấu hiểu về phong tục tập quán, dễ cảm thông trong cuộc sống, gia đình sẽ yên ấm, hạnh phúc hơn. Chế độ một vợ một chồng cũng là nguyên tắc hôn nhân cơ bản được tuân thủ nghiêm túc. Theo luật tục, người đàn ông chỉ được phép lấy và chung sống với một người vợ. Chỉ trong trường hợp người vợ mất hoặc vợ chồng bỏ nhau thì người đàn ông mới được lấy vợ hai. Với người phụ nữ, nguyên tắc này cũng không được phép vi phạm. Ngoài ra, cũng tồn tại tục anh em vợ (khi anh trai mất thì em chồng lấy chị dâu) nhưng phải được cộng đồng chấp nhận và xuất phát sự tự nguyện của hai bên.

     Tính chất hôn nhân của người Mông Đen là mua bán, được thể hiện rõ ở số tiền thách cưới. Trước đây, người Mông thường thách cưới bằng bạc trắng, nhà trai trước khi sang nhà gái làm lễ thông báo phải chuẩn bị sẵn một số bạc trắng và giao cho ông mối đưa đi theo. Số tiền được thách cưới do nhà gái đề xuất, sau đó hai bên cùng thảo luận để xin giảm bớt. Hôn nhân về cơ bản là sự thỏa thuận của hai bên bố mẹ và con cái. Con trai từ 12, 13 tuổi đã được bố mẹ nhắm trước cô dâu tương lai. Tuy nhiên, thông thường các chàng trai cô gái thích nhau, tự tìm hiểu đến khi có dự định kéo vợ thì thông báo cho bố mẹ để chuẩn bị mọi thứ cho mình.Trong hôn nhân, bố mẹ không có quyền chỉ định bạn đời cho con trai, mà chỉ gợi ý, tạo điều kiện cho hai người gặp nhau. Việc ép gả hầu như rất ít xảy ra, nếu có cũng chỉ là sự phản đối từ phía nhà gái, nhất là khi nhà trai không tương xứng.

     Về tiêu chuẩn bạn đời, khi chọn dâu, người ta không đặt tiêu chí hình thức lên hàng đầu, mà quan tâm đến phẩm chất đạo đức: sự siêng năng, chăm chỉ, tính tình nhẫn nại, biết quan tâm, chăm sóc bố mẹ, anh chị em, đặc biệt là các cháu nhỏ. Khi kén rể, họ thường đề cao các tiêu chí về sức khỏe, chăm chỉ, không nghiện hút, biết ăn nói... Hiện nay, thanh niên có điều kiện đi học, đi làm ăn xa, tiếp xúc với văn hóa mới, nên đã có sự thay đổi nhận thức trong lựa chọn bạn đời. Ngoài ra, trình độ học vấn, hiểu biết xã hội... cũng là những yếu tố được đặt ra khi tìm bạn đời.

     Tuổi kết hôn trung bình của người Mông Đen trước đây: nam 12-15 tuổi, nữ 15-18 tuổi, tuổi của vợ thường cao hơn tuổi của chồng từ 3-5 tuổi. Trước đây người Mông chủ yếu lấy vợ để làm nương rẫy, giúp việc gia đình, nên họ chọn những cô gái lớn tuổi hơn. Ngày nay, tuổi kết hôn của nam từ 16 -18 tuổi, nữ từ 15-18 tuổi, đã được nâng lên, song tình trạng chủ yếu vẫn là tảo hôn. Những thanh niên có ý thức kết hôn khi đủ tuổi quy định không nhiều. Hiện nay việc lấy vợ hơn tuổi không còn phổ biến, song vẫn diễn ra, nên việc đăng ký kết hôn cũng không nhiều. Phần lớn sau khi cưới vài ba năm, có thể đã có từ 2-3 con thì mới đăng ký kết hôn.

     2. Chu trình đám cưới

     Kéo vợ

     Người Mông Đen ở Tà Xùa quan niệm rằng, một cô gái không được kéo về nhà chồng thì sẽ không được cộng đồng và gia đình chàng trai coi trọng. Vì vậy, việc tổ chức kéo vợ vẫn là nghi lễ bắt buộc. Thủ tục hoàn toàn được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện, sau khi cô gái đã chấp nhận làm vợ chàng trai. Họ thường chọn ngày chẵn, đặc biệt các ngày Hợi, Thìn, Tuất để tổ chức kéo vợ và thực hiện các thủ tục hôn nhân. Thông thường, đoàn kéo vợ của nhà trai có từ 4 - 5 người, gồm 1 - 2 người hiểu biết phong tục tập quán, giỏi ăn nói và bạn bè của chàng trai. Họ thường tổ chức kéo vợ ban đêm, kiêng kéo ban ngày bởi kéo vợ ban ngày chứng tỏ cô gái đó lười biếng, và cũng sẽ bị phạt vạ. Trong quá trình kéo vợ, nếu bị nhà gái phát hiện, chàng trai vẫn tiếp tục kéo cô gái đi, người lớn tuổi ở lại thuyết phục nhà gái không đuổi theo nữa và đưa cho mỗi người 20 - 30 nghìn tiền lễ. Đoàn người đi bộ suốt đêm trở về và lúc cô dâu bước chân qua ngưỡng cửa nhà trai cũng là lúc thủ tục kéo vợ hoàn thành.

     Thông báo và thách cưới

     Thủ tục thông báo (thông xô) được thực hiện ngay sáng hôm sau. Thông thường, họ phải nhờ 1 ông mối chính (chứ mềnh công) và1 ông mối phụ (lử mềnh công). Sáng sớm, nhà trai mổ lợn làm cơm thết đãi 2 ông mối, những người đã giúp kéo dâu cùng anh em dòng họ, thông báo từ hôm nay gia đình đã có con dâu mới và một lần nữa nhờ 2 ông mối sang nhà gái làm thủ tục. 2 ông mối hỏi lại chàng trai và cô gái có thống nhất cưới không và nếu cả hai đồng ý, 2 ông mối lên đường. Ông mối chính cầm ô đen (trên buộc khăn) và tiền hỏi cưới. Ông mối phụ đeo lù cở đựng thuốc lào, can 5 lít rượu, 2 chén nứa úp lên 2 ống nứa đựng rượu và 1 cái chăn. Nhà trai chuẩn bị 2 con gà luộc và một ít cơm để ông mối ăn đường. Được nửa đường, 2 ông mối dừng nghỉ, lấy gà, cơm, rượu làm lễ cúng thần linh, thổ công thổ địa, thần núi, thần rừng. Sau đó, 2 ông mối ăn hết rồi tiếp tục lên đường. Đến nhà gái, 2 ông phải đi vào bằng cửa chính. Ông mối chính đi về phía bàn thờ ma, treo ô lên tường phía đầu nhà. Ông mối phụ chuẩn bị thuốc lào để xin được làm thủ tục. Việc nhận thuốc lào đồng nghĩa với việc chấp nhận cho nhà trai làm thủ tục hỏi cưới, nên nhà gái để ông mối năn nỉ vài lần mới đồng ý. Sau thủ tục trao và nhận thuốc lào, nhà gái chỉ định ông mối nhà gái và buộc 2 ông mối nhà trai phải đi mời về.

     Trong quá trình lễ hỏi cưới, chỉ có ông mối hai bên ngồi bàn bạc, nhà gái ngồi bên bếp lửa, không tham gia. Tuy nhiên, khi cần quyết định thì ông mối nhà gái hỏi bố mẹ cô gái rồi truyền lời choông mối nhà trai biết, nhất là khi thảo luận tiền thách cưới. Trước đây, họ thách cưới bằng bạc trắng, khoảng 30 năm trở lại đây, thay bằng tiền, dao động từ 25- 30 triệu đồng. Việc trao nhận tiền thách cưới được thực hiện qua thủ tục lùa trâu vào chuồng (lớ nhù) do ông mối phụ nhà trai và người đại diện nhà gái thực hiện. Một người đi trước bê theo sàng tiền, tượng trưng cho con trâu - cơ nghiệp, sức lao động, một người đi sau cầm roi đuổi trâu, cùng đưa sàng tiền vào buồng bố mẹ cô gái và được mời uống 2 chén hoặc 2 bát rượu. Sau khi người đại diện nhà gái nhận tiền thì 2 ông ra ngoài, việc thông báo và hỏi cưới kết thúc. Nhà gái mổ lợn, gà thết đãi 2 ông mối nhà trai, chính thức thông báo với anh em họ hàng và xóm giềng rằng con gái đã đi lấy chồng.

     Sau bữa cơm, 2 ông mối nhà trai cáo từ ra về. Trường hợp nhà gái tổ chức lễ cưới thì ô và lù cở sẽ được để lại nhà gái, khi nào cưới sẽ có thủ tục trao nhận để nhà trai đưa về. Trường hợp nhà gái không tổ chức cưới thì thủ tục bên nhà gái coi như đã hoàn thành. Chiếc ô được ông mối chính gỡ xuống, đưa về nhà trai. Nhà gái chuẩn bị 2 con gà luộc và một ít cơmđể hai ông mang theo. Khi về, 2 ông dừng nghỉ đúng chỗ nghỉ lúc đi, lấy gà, cơm, rượu ra làm lễ cúng cảm tạ thần linh, thổ công thổ địa, thần núi, thần rừng đã giúp đỡ. Sau đó, hai ông ăn hết rồi tiếp tục trở về báo tin mừng. Về đến nơi, ông mối chính treo ô lên vách phía đầu nhà bên cạnh bàn thờ ma nhà trai và đến khi nào nhà trai tổ chức đám cưới xong mới được mở ra. Đến đây, nhiệm vụ thông báo của hai ông mối đã hoàn thành.

     Lễ nhập ma

     Lễ nhập ma (chài ùa đăng) được thực hiện vào ngày thứ 3 sau khi kéo vợ, thường do một người am hiểu phong tục tập quán hoặc thày mo trong bản chủ trì. Để nhập ma, người ta cần chuẩn bị 2 con gà, 1 trống và 1 mái. Đầu tiên, người hành lễ sẽ mở rộng cửa ma, thắp hương cắm vào hai bên cửa chính, hai cột ma ở gian giữa và hai bếp chính, phụ. Sau khi thắp hương, người cúng đứng trước cửa hướng mặt ra bên ngoài, tay giữ đôi gà và lẩm nhẩm khấn, trước là để gọi hồn cô gái về, sau là thông báo để ma nhà trai nhập hồn cô gái về cùng ma tổ tiên. Người con gái sau lễ nhập ma sẽ chính thức được công nhận làm con dâu, sống là người nhà trai, chết làm ma nhà trai. Trong lễ, nếu nhà trai không thích tên cũ hoặc cô dâu có vấn đề về sức khỏe... thì sẽ đặt tên mới cho cô dâu. Ngụ ý rằng cô dâu đã được sinh ra lần nữa ở nhà chồng, cầu mong luôn được khỏe mạnh, hạnh phúc.

     Thăm bố mẹ vợ lần đầu

     Ba ngày sau khi bắt dâu, nhà trai đưa con dâu về thăm bố mẹ vợ lần đầu (mông say nạ tày). Đoàn đi, ngoài đôi vợ chồng còn có bố chú rể (nếu bố không đi được thì nhờ anh trai, chú, bác) và cô em gái nhỏ. Từ sớm, nhà trai đã dậy làm bánh dày, lễ vật duy nhất và không thể thiếu, để đưa sang nhà gái, không quan trọng số lượng ít hay nhiều nhưng phải là số chẵn. Có người cho rằng số chẵn thể hiện sự đủ đầy, có đôi có cặp, cuộc sống lứa đôi hạnh phúc. Cũng có người lý giải, số chẵn tượng trưng cho con trai, số lẻ tượng trưng cho con gái, người ta sử dụng số chẵn với hy vọng sẽ sinh được con trai đầu lòng...

     Khi đoàn nhà trai đến, nhà gái mổ lợn mời anh em, hàng xóm đến chung vui, giới thiệu con rể, gia đình không có tiềm lực thì mổ gà làm bữa cơm nhỏ tiếp đón đoàn nhà trai. Đoàn nhà trai sẽ ở lại một vài ngày để giúp công việc hằng ngày như lấy củi, lên nương, chăn thả gia súc... rồi lên đường trở về. Cô dâu mang theo tất cả đồ dùng, quần áo, tư trang về ở hẳn nhà chồng và chỉ sang thăm nom, giúp đỡ bố mẹ đẻ những lúc cần thiết.

     Đám cưới nhà gái

     Trước đây, vì đời sống khó khăn, phần lớn người Mông Đen ở Tà Xùa không tổ chức đám cưới bên nhà gái. Do đó, sau bữa cơm đón tiếp đoàn nhà trai đưa con gái về thăm thì thủ tục bên nhà gái đã xong. Chỉ một số gia đình có điều kiện mới tổ chức lễ cưới cho con gái. Số người nhà trai sang dự gồm 2 ông mối nhà trai, cô dâu, chú rể, 1 phù rể, 1 phù dâu, 1 nam, 1 nữ đại diện bố mẹ chú rể. Đáng chú ý nhất trong lễ cưới nhà gái là thủ tục trả ô và lù cở. Người ta kê một bàn nhỏ ngay trước cửa ma, ông mối nhà trai rót 2 chén rượu đầy đặt trước mặt ông mối nhà gái và xin phép làm thủ tục. Ông mối nhà gái rót lại cho 2 ông mối nhà trai mỗi người 2 chén rượu đầy. Sau khi 3 ông uống cạn, ông mối nhà gái gỡ chiếc ô đặt lên bàn, lù cở để dưới chân bàn. Rồi bắt đầu những bài hát đối đáp giữa ông mối hai bên. Lời hát của ông mối nhà gái là sự gửi gắm nhà trai chăm sóc, dạy bảo con gái. Sau khi nhận được lời cam kết từ ông mối nhà trai, 3 ông mối uống hết một lượt rượu nữa, rồi ông mối nhà gái cầm ô trao cho ông mối chính nhà trai, lù cở sẽ được ông mối phụ nhà trai đeo. Đoàn nhà trai xin phép ra về để kịp thời gian làm lễ cưới nhà trai.

     Đám cưới nhà trai

     Theo phong tục, sau đám cưới nhà gái, hôm sau sẽ tổ chức đám cưới nhà trai. Trường hợp nhà gái không tổ chức đám cưới thì nhà trai có thể tổ chức đám cưới ở mức độ to, nhỏ tùy vào điều kiện của gia đình. Để tổ chức đám cưới (hầu chéo to tu), nhà trai sẽ nhờ đến sự giúp đỡ của anh em trong dòng họ và hàng xóm. Theo đó sẽ có một ban quản sự từ 8-10 người lo việc tổ chức, thiết đãi khách khứa giúp chủ nhà. Người có vai trò quan trọng nhất, chỉ đạo mọi việc trong đám cưới là cang xử.

     Đám cưới trước đây thường được tổ chức vào buổi tối. Bởi vậy, từ sáng sớm, nhà trai mổ lợn hoặc bò để làm cỗ cưới, trong đó phần thịt ngon nhấtsẽ được cắt thành từng miếng để chia cho những người đã góp công vào đám cưới. Đám cưới nhà trai mời đại diện nhà gái gồm bố mẹ cô dâu, chú bác, anh chị em sang dự. Tuy nhiên, nếu đám cưới được tổ chức chỉ sau lễ kéo dâu từ 1 đến 2 tháng thì bố mẹ cô dâu không được dự mà thay vào đó là chú, bác đi đại diện vì người ta quan niệm: cô dâu đi lấy chồng, bố mẹ mất con gái đang buồn, nếu sang dự sẽ làm bớt đi không khí vui mừng từ phía nhà trai. Nhưng nếu đám cưới tổ chức sau đó từ 1 năm trở lên thì bố mẹ cô gái bắt buộc phải tham dự.

     Người Mông Đen quan niệm số chẵn là may mắn bởi vậy một mâm cỗ cưới thường có 12 người ngồi. Trước mặt mỗi người bày 2 chén nứa đựng rượu, 1 cao và 1 thấp, chén cao là chồng, chén thấp là vợ, phải có đôi có cặp thì cuộc sống mới hạnh phúc. Trên mâm bày 4 bát thịt luộc. Bắt đầu thủ tục, người đại diện cầm một cái sàng và một gói thuốc lào, khi muốn mời ai vào ngồi mâm thì mời người đó một ít thuốc lào và dắt đi vòng quanh mâm đến ngồi đúng vị trí được sắp xếp. Thường thì 2 ông mối sẽ ngồi đầu mâm, tiếp theo là ông cậu và các anh em trong dòng họ. Sau khi đã mời đủ số người, ông đại diện bắt đầu làm thủ tục. Thông thường đám cưới của người Mông khi làm thủ tục sẽ phải mời 3, 6 hoặc 9 lượt rượu, mỗi lượt sẽ uống 3 lần. Thủ tục khi mời rượu chủ yếu là hát đối đáp giữa người đại diện và 2 ông mối. Chính vì vậy, cả người đại diện và ông mối đều phải là người am hiểu về văn hóa và tập quán của người Mông để có thể đối đáp trôi chảy, nếu một trong hai bên không thể đối đáp lại được thì sẽ bị phạt 2 chén rượu đầy. Sau khi kết thúc các lượt mời rượu, một người đứng ở đầu bàn phía bếp chính cầm một cái lù cở giơ lên cao, mọi người trong mâm sau khi đã uống cạn chén rượu sẽ phải đứng lên ném chén vào lù cở, ai ném trật sẽ bị phạt rượu cho đến khi ném trúng thì sẽ được ăn cơm. Lần lượt cứ như vậy, đám cưới sẽ được tổ chức cho đến khi tất cả mọi người đều đã được mời vào mâm rượu.

     Cuối buổi lễ, sau khi ăn uống đã xong, thủ tục quan trọng nhất sẽ được thực hiện. Đó là lễ quỳ lạy tạ và lễ mở ô. Chiếc ô đen xuất hiện trong đám cưới của người Mông Đen từ khi ông mối nhà trai đi làm thủ tục thông báo cho đến khi tổ chức đám cưới. Theo phong tục xưa nay của người Mông Đen ở xã Tà Xùa, chỉ khi nào đám cưới nhà trai diễn ra thì chiếc ô này mới được mở ra và cất đi. Theo ông mối Mùa A Lồ ở bản Tà Xùa A, chiếc ô tượng trưng cho việc giữ hồn của cô gái ở trong đó, do vậy chỉ khi nhà trai tổ chức đám cưới (tức mọi thủ tục cưới hỏi đã xong xuôi) thì khi đó mới được phép mở ô ra. Thủ tục này do hai ông mối thực hiện. Hai ông mối đứng trên cái ghế, mặt hướng ra cửa ma, đối diện là chú rể và phù rể (có thể là em ruột hoặc em trong dòng họ chưa vợ). Hai ông mối lần lượt đọc tên khách mời tham dự đám cưới và những người có công giúp đỡ cho đám cưới được diễn ra tốt đẹp. Sau mỗi lần đọc tên, chú rể và phù rể phải quỳ lạy 2 lần để cảm ơn mọi người. Sau khi đã quỳ lạy tạ xong tất cả mọi người, ông mối chính cầm chiếc ô đen giũ 3 lần sau đấy mở bung chiếc ô trước sự chứng kiến của mọi người. Từ đây, cô gái chính thức trở thành con dâu của gia đình được tất cả mọi người trong dòng họ và khách khứa biết đến.

     Cho đến nay, thủ tục này vẫn còn tồn tại trong nghi lễ đám cưới của người Mông Đen ở xã Tà Xùa. Đám cưới nhà trai chính là thủ tục cuối cùng hoàn thiện hôn nhân của người Mông Đen. Sau khi cưới, đôi vợ chồng trẻ sẽ sống cùng nhà với bố mẹ chồng một vài năm, khi đã sinh được 1, 2 con và có đủ điều kiện kinh tế sẽ xin tách ra riêng. Đồng thời, cô dâu sau khi về nhà chồng vẫn sẽ cùng chồng duy trì việc qua lại thăm nom, giúp đỡ bố mẹ đẻ những công việc cần thiết.

     3. Kết luận

     Hôn nhân là một trong những nghi lễ quan trọng trong chu kỳ đời người. Trong hôn nhân của người Mông Đen xã Tà Xùa, bên cạnh những đặc trưng chung của tộc người, các yếu tố văn hóa nhóm tộc người cũng thể hiện khá rõ nét. Đặc điểm này thể hiện qua nguyên tắc, tính chất, hình thức... và một loạt các nghi thức, nghi lễ trước, trong và sau hôn nhân và lễ cưới vừa trình bày trên đây.

     Ngày nay, dưới tác động của sự phát triển kinh tế xã hội và quá trình giao lưu văn hóa giữa tộc người ngày càng mở rộng, nên phong tục hôn nhân của họ cũng có những biến đổi cả về hình thức lẫn nội dung. Tỉ lệ tảo hôn trong những năm gần đây giảm đáng kể, tình trạng hôn nhân cận huyết được loại trừ... Đây là những thay đổi mang tính tích cực, cần được khuyến khích, phát huy. Bên cạnh đó, những nét đẹp văn hóa truyền thống trong hôn nhân của người Mông Đen vẫn được bảo tồn, duy trì, góp phần đề cao giá trị nhân văn trong quá trình tìm kiếm bạn đời, tính cố kết chặt chẽ của gia đình và dòng họ thông qua tập quán cưới xin của họ... Những giá trị văn hóa này cần được đề cao và phát huy hơn nữa để góp phần thực hiện theo tinh thần Nghị quyết của Đảng ta xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

_______________

1. Dương Hà Hiếu, Tục cưới xin của người Mông Trắng ở Thuận Châu, Sơn La (qua nghiên cứu tại bản Nậm Giắt, xã Phỏng Lái), Tạp chí Dân tộc học, số 3-2008.

2. Nguyễn Thị Bích Ngọc, Hôn nhân của người Mông Hoa ở xã Púng Luông, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, Luận văn Thạc sĩ Dân tộc học, 2015.

3. Huyện ủy - HĐND-UBND huyện Kỳ Sơn, Đặc trưng văn hóa và truyền thống cách mạng các dân tộc ở Kỳ Sơn, Nghệ An, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

 

Tác giả: Nguyễn Thị Huyền

Nguồn: Tạp chí VHNT số 417, tháng 3-2019

 

;