Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, những kết quả đạt được, vấn đề đặt ra và phương hướng, giải pháp trong 10 năm tới

Trong tiến trình lịch sử, giao lưu, tiếp biến văn hóa tại Việt Nam diễn ra từ rất sớm cùng với sự di cư của các tộc người, sự du nhập của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, mở rộng, tiếp biến với văn hóa Chăm, Khmer, tiếp xúc với văn hóa Pháp và hội nhập văn minh phương Tây... Trên nền tảng nội lực văn hóa mạnh mẽ, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã chủ động tiếp thu, cải biến các yếu tố ngoại sinh để làm giàu có thêm nền văn hóa đa dạng, “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” của mình. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế hội nhập quốc tế, văn hóa trở thành nguồn sức mạnh nội sinh, là mục tiêu, động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Chương trình giao lưu nghệ thuật "Ngày hội thắm tình hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào năm 2023"  - Nguồn: Nhà hát nghệ thuật Ca Kịch Huế 

1. Từ chủ trương “giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa” đến “chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa” trong các văn kiện của Đảng

Các vấn đề quốc tế được đề cập tại Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943. Văn kiện lịch sử này cũng đề ra các nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa Việt Nam để chống lại nguy cơ của chính sách văn hóa Pháp, Nhật, giữa những tranh đấu về học thuyết tư tưởng của triết học Âu, Á… những thách thức về văn hóa, xã hội trong bối cảnh quốc tế và khu vực. Trong giai đoạn 1945-1975, Đảng và Nhà nước đã chủ động triển khai các hoạt động văn hóa, tuyên truyền đối ngoại, nhằm nêu cao chính nghĩa của cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, góp phần quan trọng vào việc từng bước phá vỡ vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, phục vụ công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) khi lần đầu tiên cụm từ hội nhập xuất hiện trong Văn kiện, đến Đại hội IX (2001) chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước để tránh nguy cơ tụt hậu. Tại Đại hội X (2006), Đảng ta nhấn mạnh chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác. Đại hội XI của Đảng có bước phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại, chuyển từ hội nhập kinh tế quốc tế của các kỳ Đại hội trước sang hội nhập quốc tế một cách toàn diện, đề ra chủ trương rất quan trọng là chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sự ra đời của Nghị quyết 22-NQ/TW được Bộ Chính trị ban hành ngày 10-4-2013 mở ra giai đoạn hội nhập toàn diện của đất nước ta trên tất cả các lĩnh vực cơ bản: kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ, giáo dục, đào tạo…

Trên lĩnh vực văn hóa, sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Văn kiện Đại hội Đảng VIII đã đề cập đến việc mở rộng giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao với các dân tộc, nhất là với các nước trong khu vực là một trong các nội dung của chương trình giải quyết các vấn đề văn hóa, xã hội trong kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 5 năm 1996-2000. Đặc biệt cũng trong thời kỳ này, tại Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII đã ban hành một Nghị quyết lịch sử về văn hóa “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong đó xác định mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam với thế giới, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học tiến bộ của nước ngoài... là một trong 10 nhiệm vụ cụ thể để xây dựng nền văn hóa Việt Nam thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đẩy mạnh thêm một bước, đề ra nhiệm vụ tích cực mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa, chống sự xâm nhập của các loại văn hóa phẩm độc hại, lai căng...

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam được đánh giá đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc, tạo thế và lực cho sự ra đời và việc triển khai mạnh mẽ chủ trương chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa. Lần đầu tiên thuật ngữ này được sử dụng tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị quyết số 33-NQ/TW 9-6-2014) - nghị quyết văn hóa mới của thời kỳ hội nhập, trong đó, xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm: “chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc”. Đây là việc tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW trong lĩnh vực văn hóa và được đẩy mạnh tại Kết luận số 76-KL/TW ngày 4-6-2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16-1-2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn...

Chủ trương lớn của Đảng về hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế về văn hóa

Như vậy, có thể nhận thấy, từ chủ trương chính sách cho đến thực tiễn, văn hóa là một trong những lĩnh vực mang tính “tiên phong”, diễn ra sự giao lưu, hợp tác, hội nhập quốc tế từ sớm, góp phần mở đường, khai thông, bình thường hóa quan hệ với một số nước trên thế giới, tăng cường và làm sâu sắc hiểu biết với các dân tộc, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế và trong tiến trình mang tính tương tác hai chiều, chúng ta đã chủ động tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú hơn nền văn hóa đa dạng, đặc sắc của Việt Nam.

Sau gần 40 năm Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, công tác giao lưu, hợp tác, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, ngày càng được tiến hành chủ động, tích cực, phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, đa dạng về hình thức, phương thức, đối tác và có nhiều chuyển biến về chất lượng. Tiến trình quan trọng này giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội; quảng bá, giới thiệu văn hóa, con người Việt Nam đến bạn bè quốc tế; góp phần hoàn thiện thể chế, tiếp cận các tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế; là thành tố quan trọng gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước.

2. Một số kết quả của công tác hội nhập quốc tế về văn hóa

Hoàn thiện thể chế, chính sách

Trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tích cực tham gia các công ước, điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, kịp thời thể chế hóa các nguyên tắc, chuẩn mực, từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa như Luật Thư viện 2019, Luật Điện ảnh 2022, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ 2022, góp phần đổi mới công tác quản lý nhà nước; bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia, thực hiện cam kết tại các hiệp định thương mại tự do...

Hai kết quả trực tiếp về mặt chính sách trong lĩnh vực hội nhập quốc tế về văn hóa được đề ra tại Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế (ban hành kèm theo Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 13-5-2014 của Chính phủ) đó là sự ra đời của Chiến lược văn hóa đối ngoại Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 210/QĐ-TTg ngày 8-2-2015 của Thủ tướng Chính phủ và Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (ban hành theo Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ), trở thành cơ sở quan trọng tạo chuyển biến, bước phát triển thực chất trong quá trình triển khai thực hiện công tác giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa. Tinh thần và nội dung của các chiến lược này tiếp tục được khẳng định và đặt làm trọng tâm ưu tiên trong các văn bản chính sách được ban hành trong những năm tiếp theo như Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 10-9-2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh triển khai Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam, Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 (phê duyệt tại Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12-11-2021 của Thủ tướng Chính phủ).

Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương

Làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương

Trong giai đoạn 10 năm trở lại đây, khi triển khai các Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Chính phủ, Bộ VHTTDL chủ trì đàm phán, ký kết, gia nhập 120 văn bản hợp tác quốc tế (điều ước, thỏa thuận quốc tế) song phương, đa phương về văn hóa, thể thao và du lịch làm cơ sở thúc đẩy các hoạt động giao lưu, hợp tác, hội nhập quốc tế, tận dụng các nguồn lực, kinh nghiệm quốc tế.

Với vai trò chủ lực, đi đầu, Bộ VHTTDL đã chủ trì, tổ chức công tác quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó, kể từ năm 2015 khi Chiến lược văn hóa đối ngoại được ban hành, đã tổ chức gần 30 chương trình, hoạt động văn hóa, nghệ thuật phục vụ các chuyến thăm của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến các nước, làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược, củng cố tình hữu nghị với bạn bè truyền thống. Bộ VHTTDL cũng chủ trì và điều phối tổ chức gần 80 sự kiện Tuần/ Ngày Văn hóa Việt Nam tại nhiều quốc gia trên khắp các châu lục, trong đó dành sự quan tâm đặc biệt đến các nước có quan hệ hữu nghị láng giềng truyền thống, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với Việt Nam, nhân kỷ niệm năm tròn, năm chẵn quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước. Các hoạt động văn hóa đối ngoại của Việt Nam diễn ra với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, được đầu tư tổ chức quy mô, có trọng tâm, trọng điểm nhân dịp kỷ niệm năm chẵn, năm tròn quan hệ ngoại giao với các nước, tiêu biểu như Năm chéo Pháp - Việt (2013-2014), Năm chéo Việt - Nga, Năm Đoàn kết hữu nghị Việt - Lào 2017 và 2022, Năm Hữu nghị Việt Nam - Campuchia 2017 và 2022, chuỗi chương trình văn hóa, nghệ thuật Việt Nam tại Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Tây Ban Nha... Nhiều chương trình văn hóa đối ngoại có quy mô lớn, lần đầu tiên được tổ chức và tạo được sức lan tỏa sâu rộng, giới thiệu các giá trị văn hóa Việt Nam đến cộng đồng quốc tế.

Hợp tác đa phương - khẳng định vai trò thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế

Ở trong nước, Việt Nam đã chủ trì tổ chức các sự kiện quốc tế lớn như: Đại hội đồng Liên Nghị viện thế giới lần thứ 132 (IPU 132) năm 2015; Năm APEC Việt Nam 2017; Hội nghị thường niên lần thứ 26 Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF 26) năm 2018; Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN (WEF-ASEAN) 2018; Đại hội Tổ chức Các cơ quan kiểm toán tối cao châu Á lần thứ 14 (ASOSAI 14) 2018; Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên 2019; Đại lễ Phật đản Vesak năm 2019; Năm Chủ tịch ASEAN 2020; Đại hội đồng Liên Nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á lần thứ 41 (AIPA 41) năm 2020... Trong đó, Bộ VHTTDL trực tiếp tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật với nhiều hình thức đa dạng, phong phú (biểu diễn nghệ thuật, triển lãm, chiếu phim, trưng bày), thiết kế trang phục cho Lãnh đạo cấp cao; xây dựng bộ nhận diện hình ảnh, triển khai công tác quảng bá trực quan... Các hoạt động văn hóa này đã góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam thân thiện, mến khách, nêu bật được tinh thần chủ động, thể hiện vai trò của Việt Nam là đối tác tin cậy, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Trong khuôn khổ cơ chế UNESCO, Bộ VHTTDL tham gia tích cực, thực hiện hiệu quả 4 Công ước về văn hóa, 1 Công ước về thể thao và đóng góp hiệu quả tại các cơ chế, diễn đàn lớn của UNESCO. Việt Nam được cộng đồng quốc tế tín nhiệm, đảm nhiệm các vị trí công tác đòi hỏi chuyên môn sâu như ủy viên Ủy ban Di sản thế giới (nhiệm kỳ 2013-2017), Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO 2005 về bảo vệ và phát huy sự đa dạng các biểu đạt văn hóa nhiệm kỳ 2021-2025, Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể nhiệm kỳ 2022-2026... Tháng 11-2023, với uy tín của mình, một lần nữa Việt Nam đã trúng cử Ủy ban Di sản thế giới (nhiệm kỳ 2023-2027) với số phiếu cao nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Đến nay, Bộ VHTTDL, Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và các địa phương đã phối hợp xây dựng hồ sơ, đệ trình thành công UNESCO ghi danh 33 danh hiệu thuộc các loại hình (2 di sản thiên nhiên thế giới, 5 di sản văn hóa thế giới, 1 di sản hỗn hợp, 15 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, 3 di sản tư liệu thế giới, 6 di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương, 1 danh hiệu Thành phố sáng tạo UNESCO). Các danh hiệu này đã góp phần nâng cao nhận thức, sự quan tâm của cộng đồng và xã hội về giá trị của di sản; tăng cường công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di sản; tạo các sản phẩm văn hóa, du lịch hấp dẫn. Đồng thời, Việt Nam còn đóng góp những thực tiễn tốt trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản cho cộng đồng thế giới tham khảo, là nước đầu tiên đề xuất UNESCO chuyển 1 di sản phi vật thể từ danh sách bảo vệ khẩn cấp sang danh sách đại diện của nhân loại.

Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN, về văn hóa, Bộ VHTTDL tham gia đầy đủ các cơ chế như Hội nghị Bộ trưởng phụ trách văn hóa, nghệ thuật ASEAN (AMCA), Quan chức cấp cao phụ trách văn hóa, nghệ thuật ASEAN (SOMCA), Ủy ban Văn hóa Thông tin ASEAN (COCI); thực hiện vai trò điều phối hợp tác văn hóa ASEAN - Ấn Độ giai đoạn 2015-2018, ASEAN - Nhật Bản giai đoạn 2018-2021, ASEAN - Hàn Quốc giai đoạn 2021-2024; tích cực triển khai Kế hoạch thực hiện các mục tiêu của Cộng đồng văn hóa - Xã hội ASEAN đến năm 2025, đẩy mạnh việc tổ chức và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật kỷ niệm 50 năm thành lập ASEAN năm 2017. Đặc biệt, năm 2020, Bộ VHTTDL thực hiện hiệu quả công tác điều phối với vai trò Trưởng Tiểu ban Tuyên truyền - Văn hóa trong Năm Chủ tịch ASEAN 2020 tại Việt Nam; triển khai công tác tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao trong Năm Chủ tịch ASEAN 2020, chủ động đề xuất sáng kiến Bản tường thuật bản sắc ASEAN, tham gia các Hội nghị Bộ trưởng phụ trách văn hóa, nghệ thuật ASEAN và Hội nghị Quan chức cấp cao phụ trách văn hóa, nghệ thuật ASEAN dưới hình thức trực tuyến. Ngày 24-11-2022, Bộ VHTTDL đã tổ chức thành công Hội nghị lần thứ 57 Ủy ban Văn hóa - Thông tin ASEAN với chủ đề “Chuyển đổi số: Cơ hội tiếp cận cho mọi người”, trong đó, trao đổi, đề ra những định hướng mới, tăng cường áp dụng chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, thông tin ASEAN, tiếp tục đưa những đóng góp của hợp tác văn hóa, thông tin ASEAN nói chung và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC) nói riêng vào quá trình triển khai Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025 của trụ cột văn hóa, xã hội.

Tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với bạn bè quốc tế

Các hoạt động văn hóa đối ngoại với nhiều quy mô khác nhau đã được tổ chức hằng năm ở khắp các châu lục trên thế giới. Nhiều Ngày Việt Nam, Ngày Văn hóa/ Tuần Văn hóa, Ngày/ Tuần Văn hóa - Du lịch bao gồm nhiều hoạt động đa dạng như: biểu diễn nghệ thuật, lễ hội, tuần phim, triển lãm giới thiệu hình ảnh đất nước, con người, trưng bày bảo tàng, hội thảo, roadshow quảng bá du lịch… Bộ VHTTDL quan tâm tăng cường sự hiện diện, tham gia và ảnh hưởng của Việt Nam tại các sự kiện có quy mô, chất lượng, uy tín nhất trên thế giới.

Triển lãm Thế giới EXPO - được coi là một trong 3 sự kiện lớn nhất hành tinh (sau Giải bóng đá thế giới và Thế vận hội Olympic). Việt Nam đã tham gia 7 kỳ EXPO. Trong đó, Triển lãm Thế giới EXPO 2020 tại Dubai, Các tiểu Vương quốc Ả rập Thống nhất làm nên những thành tựu nổi bật về văn hóa đối ngoại ở cấp độ toàn cầu. EXPO Dubai 2020 quy tụ 192 quốc gia trên thế giới và thu hút 25 triệu lượt khách tham quan trong thời gian 6 tháng từ 1-10-2021 đến 31-3-2022 bất chấp đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp. Nhà Triển lãm Việt Nam tại Triển lãm Thế giới EXPO 2020 mang thông điệp Hội tụ quá khứ, lan tỏa tương lai thể hiện nỗ lực to lớn của Việt Nam trong việc quảng bá hình ảnh quốc gia, phát huy sức mạnh của giá trị văn hóa và sự sáng tạo của con người Việt Nam, đã thu hút 700.000 lượt khách tham quan, đón tiếp hơn 30 đoàn nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu các tổ chức quốc tế (Tổng Thư ký ASEAN, Tổng Thư ký Pháp ngữ...), đạt giải Đồng về “Diễn giải chủ đề” và giải Nhất hạng mục Sáng kiến, ý tưởng, sản phẩm có giá trị thông tin đối ngoại của Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại lần thứ VIII, khẳng định văn hóa là phương thức quan trọng, hiệu quả trong tuyên truyền đối ngoại và hoạt động ngoại giao.

Tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại

Ở cấp độ quốc gia, Bộ VHTTDL phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, đối tác liên quan đã chủ động đăng cai, tổ chức nhiều sự kiện có quy mô, uy tín, chất lượng tầm cỡ khu vực và quốc tế tại Việt Nam như Liên hoan Phim quốc tế Hà Nội, Liên hoan Xiếc quốc tế, Liên hoan Múa rối quốc tế, Liên hoan Âm nhạc ASEAN...

Ngày càng nhiều các sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch quốc tế được tổ chức tại các địa phương trở thành thương hiệu như Festival Huế, Lễ hội pháo hoa Đà Nẵng, Lễ hội hoa phượng đỏ Hải Phòng, Carnaval biển Hạ Long...

Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Việt Nam, các Hội Văn học, nghệ thuật chuyên ngành Trung ương đã triển khai và đạt nhiều kết quả về công tác đối ngoại trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Thông qua 5 kỳ tổ chức Liên hoan quốc tế sân khấu thử nghiệm, Việt Nam không chỉ mang lại các hoạt động nghệ thuật, tạo sân chơi, giao lưu học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp cận với những tinh hoa nghệ thuật sân khấu trên thế giới, mà còn cho thấy sức mạnh của nền nghệ thuật trên thế giới với sự phát triển chung của mỗi quốc gia.

Trên lĩnh vực âm nhạc, Việt Nam ngày càng trở thành điểm đến của nhiều ban nhạc, ca sĩ có tên tuổi trên thế giới. Bên cạnh các nỗ lực của Bộ VHTTDL, hay Hội Nhạc sĩ với Liên hoan Âm nhạc mới Á - Âu (năm 2014 và 2016), các Liên hoan âm nhạc quốc tế từ sáng kiến của giới nghệ sĩ như Lễ hội âm nhạc Gió mùa, Hozo... khiến Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn của cộng đồng yêu âm nhạc, giới trẻ và du khách từ khu vực và quốc tế.

Thông qua những hoạt động này, các giá trị, tinh hoa, tri thức của nhân loại trong lĩnh vực văn hóa đã được giới thiệu đến người dân Việt Nam, khẳng định Việt Nam là điểm đến, là nơi giao lưu, chia sẻ giữa các nền văn hóa, văn minh trên thế giới, khẳng định Việt Nam là một thương hiệu, một điểm đến quốc tế uy tín, chất lượng trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch.

3. Một số vấn đề đặt ra đối với công tác hội nhập quốc tế về văn hóa

Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị cũng như thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Nhận thức chung của lãnh đạo các cấp, các địa phương về sự cần thiết và tầm quan trọng của công tác hội nhập nói chung và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa ngày càng được nâng cao. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan liên quan ngày càng hiệu quả hơn. Năng lực cán bộ làm công tác giao lưu, hội nhập quốc tế được nâng cao.

Tuy nhiên, thẳng thắn đánh giá, đối với các hoạt động giao lưu, hợp tác, hội nhập quốc tế về văn hóa, Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 40/QĐ-TTg ngày 7-1-2016 chưa phát huy được vai trò chỉ đạo, định hướng, do là phép cộng của tất cả các lĩnh vực nên không thể đi sâu vào từng lĩnh vực chuyên ngành. Đồng thời, các chiến lược không kèm các đề án được phân bổ ngân sách cụ thể nên khó được triển khai trên thực tiễn, mang lại hiệu quả thiết thực.

Ngân sách, kinh phí tổ chức các hoạt động hội nhập quốc tế về văn hóa còn hạn chế, kể cả ngân sách cử đoàn ra thực hiện các cam kết quốc tế, nghĩa vụ của quốc gia thành viên. Do ngân sách ít ỏi, mỗi hội nghị chỉ có thể cử từ 1-2 chuyên gia, đại biểu tham dự, khó có thể đào tạo, chuẩn bị lực lượng kế cận. Chúng ta cũng chưa có nguồn kinh phí để đưa ra những sáng kiến tại các tổ chức quốc tế, tạo uy tín, thanh thế cho Việt Nam. Đề án cử cán bộ thực tập, làm việc tại các tổ chức quốc tế chưa đạt hiệu quả vì thiếu nguồn lực hỗ trợ.

Bên cạnh đó, các chương trình nghệ thuật chất lượng cao, đặc sắc, các sản phẩm văn hóa mang tính hiện đại, công nghệ cao phục vụ quảng bá, giới thiệu đất nước, con người Việt Nam và tiến trình hội nhập quốc tế còn thiếu. Chưa có các sản phẩm, dịch vụ văn hóa xứng tầm để thâm nhập và xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài.

4. Phương hướng, giải pháp cho công tác hội nhập quốc tế về văn hóa trong thời gian tới

Một trong những bài học kinh nghiệm quý báu được đúc kết trong quá trình cách mạng và phát triển đất nước của dân tộc ta đó là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Hiện nay, trước sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và quá trình toàn cầu hóa, quốc tế hóa mạnh mẽ, càng cần đẩy mạnh hội nhập quốc tế để tránh nguy cơ tụt hậu, bắt kịp với xu thế thời đại, tận dụng cơ hội để đưa đất nước tiến lên.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, tiếp tục khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững, thực hiện nhiệm vụ: “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại, từng bước đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới”.

Trong 10-15 năm nữa, để Việt Nam cơ bản trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, Việt Nam cần đặt mục tiêu phải xuất khẩu sản phẩm hàng hóa, dịch vụ văn hóa ra thế giới, trở thành điểm đến đặc biệt hấp dẫn, thuộc nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới, thu hút ít nhất 50 triệu khách du lịch quốc tế, kinh tế văn hóa, thể thao và du lịch đóng góp hơn 20% vào GDP.

Muốn vậy, cần khẩn trương xây dựng và triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về chấn hưng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045, trong đó, đặt hội nhập quốc tế là một nhiệm vụ quan trọng, với các chương trình, đề án có ngân sách thực hiện, tạo “cú huých”, thúc đẩy, dẫn dắt các ngành công nghiệp văn hóa, sáng tạo trong nước phát triển, tạo ra các thương hiệu sản phẩm cụ thể. Cần đẩy mạnh tiến trình hội nhập nhằm tiếp thu các tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt là các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 nhằm ứng dụng hiệu quả vào quá trình phát triển đất nước nhanh và bền vững. Cần phát triển về văn hóa số.

Cần đầu tư cho nguồn nhân lực chất lượng cao làm công tác hội nhập quốc tế, thực hiện Đề án cử cán bộ làm việc tại các tổ chức, hiệp hội, liên đoàn quốc tế; Đề án ứng cử các vị trí quan trọng tại các tổ chức, hiệp hội, liên đoàn quốc tế… để khẳng định vị thế Việt Nam, có khả năng dẫn dắt, xây dựng luật chơi.

Đẩy mạnh hợp tác song phương về văn hóa, trên cơ sở đàm phán, ký kết các văn bản thỏa thuận quốc tế làm cơ sở cho việc triển khai các hoạt động giao lưu hợp tác; tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, chuyên gia, tiếp thu các tri thức về quản lý và khoa học, công nghệ…

Đẩy mạnh hợp tác đa phương về văn hóa, vươn lên vai trò dẫn dắt, chủ trì các sáng kiến trong Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN; thúc đẩy hội nhập văn hóa, thể thao, du lịch ở cấp toàn cầu (UNESCO, UNWTO, WIPO, IOC…), khởi xướng các sáng kiến, giải pháp mang tính toàn cầu để giải quyết các vấn đề nhân loại cùng quan tâm, bảo đảm sự phát triển bình đẳng giữa các nước.

Tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam với bạn bè quốc tế. Tăng cường sự hiện diện của Việt Nam tại các sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch quốc tế danh tiếng như World EXPO, các liên hoan phim quốc tế, hội chợ sách quốc tế... Đầu tư đăng cai các sự kiện quốc tế tầm cỡ của khu vực và thế giới. Triển khai hệ thống Tùy viên Văn hóa, xúc tiến du lịch tại nước ngoài. Xây dựng các Trung tâm Văn hóa Việt Nam ở một số địa bàn trọng điểm, chiến lược, đông cộng đồng người Việt ở nước ngoài như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Australia, Nga…

Kết hợp chặt chẽ với công tác thông tin đối ngoại để nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về văn hóa. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo tình hình về công tác hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực văn hóa.

_________________

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII, XIII.

2. Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2020 (ban hành kèm Quyết định số 208/QĐ-TTg ngày 14-2-2011 của Thủ tướng Chính phủ).

3. Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2030 (phê duyệt tại Quyết định 2013/QĐ-TTg ngày 30-11-2021 của Thủ tướng Chính phủ).

4. Chiến lược văn hóa đối ngoại đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Ban hành theo Quyết định số 210/QĐTTg ngày 8-2-2015 của Thủ tướng Chính phủ).

5. Chỉ thị 25 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh triển khai Chiến lược văn hóa đối ngoại (ban hành ngày 10-9-2021).

6. Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 (phê duyệt tại Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12-11-2021 của Thủ tướng Chính phủ).

7. Lý Tùng Hiếu, Lịch sử tiếp biến văn hóa ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1-2016.

______________________

* Tham luận tại Hội thảo “Thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 - Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức (9-2023).

TS NGUYỄN PHƯƠNG HÒA

Nguồn: Tạp chí VHNT số 554, tháng 12-2023

;