Đình Lãng Xuyên - những giá trị lịch sử, văn hóa

Đình làng Lãng Xuyên, xã Gia Tân, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương được trùng tu xây dựng năm Khải Định thứ 2 (1917). Ngôi đình không chỉ có giá trị nghệ thuật kiến trúc tiêu biểu mà còn có ý nghĩa tâm linh gắn với lịch sử văn hóa dân tộc Việt trong cộng đồng cư dân địa phương.

1. Lịch sử làng xã, địa lý liên quan đến ngôi đình

Trên bia thần tích ghi từ xưa đến nay, tên làng Lãng Xuyên đã nhiều lần thay đổi: Trang Chương Tuyền xưa, thuộc huyện Gia Phúc, phủ Hạ Hồng, đầu TK XX đổi thành xã Lãng Xuyên thuộc tổng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Sau Cách mạng Tháng Tám, xã Lãng Xuyên hợp với hai thôn An Tân, Phúc Tân thành xã Chí Thiện. Năm 1947, xã Chí Thiện sáp nhập với ba thôn Tranh Đấu, Tầng Hạ, Đồng Bào thành xã Kiên Trung. Năm 1956, xã Kiên Trung tách thành hai xã. Ba thôn Tranh Đấu, Tầng Hạ, Đồng Bào hợp thành xã Gia Xuyên. Ba thôn An Tân, Lãng Xuyên, Phúc Tân hợp nhất thành xã Gia Tân ngày nay (1).

Đình Lãng Xuyên - di tích lịch sử, văn hóa quốc gia - Ảnh: Minh Của

Đình Lãng Xuyên được gắn với địa danh tên làng, tọa lạc tại địa điểm thuận lợi của thôn. Làng Lãng Xuyên nằm ở giữa ba thôn, đình làng tọa ở đầu thôn hướng mặt tiền về phía Tây Nam có cảnh quan phong thủy đẹp, trông ra con sông Chương. Từ xưa, nước sông Chương vẫn xuôi dòng quanh co uốn khúc chảy về hướng Đông ven theo hai thôn An Tân, Lãng Xuyên. Hiện nay, con sông đã thu hẹp do chặn dòng trị thủy, tuy thay đổi, nhưng cảnh quan vẫn thoáng đẹp nên thơ, với một nhịp cầu bắc ngang trên sông.

2. Giá trị lịch sử văn hóa dân gian

 Trên bia thần tích năm Đinh Tỵ 1917 thời Khải Định, câu chuyện huyền thoại kể về tinh thần yêu nước thương dân của vị thiên thần thời Hùng Vương thứ 18, khi giặc Đông Hán phương Bắc sang xâm chiếm nước ta. Tướng giặc Tô Định đem 10 vạn tinh binh, 8 vạn chiến thuyền tiến sang xâm lược nước ta, chúng tham tàn bạo ngược làm cho dân chúng đất trời phẫn uất đau thương. Trước tình hình đó, cháu gái dòng dõi Hùng Vương là Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị đã tập hợp dân chúng nhất tề đứng lên dấy binh phất cờ khởi nghĩa. Hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị là nữ tráng hào kiệt tài đức hơn người, phẫn phất hùng uy cử binh cự chiến với giặc. Trước ngày xuất quân, Trưng nữ làm lễ cầu đào tại cửa khẩu Hát Môn (Phúc Thọ, Hà Nội) cầu xin cho quân ta chiến thắng. Cầu khấn xong bỗng thấy đất trời bốn bề nổi cơn giông tố mưa gió dữ dội cờ xí ngả nghiêng chao đảo, trên đàn bỗng thấy một người con gái y phục nghiêm trang, trẻ đẹp, dáng người thon thả, mặt phượng mày ngài sắc như hoa xuân phơi phới, cưỡi mây giáng thẳng xuống đàn và nói: “Ta vốn là tiên cung tiên phủ giáng xuống trần gian, ngự tại đình Trang Chương Tuyền (huyện Trường Tân), tự hiệu là Ngọc Hoa Giao trên trời ngự giá nơi tiên cung kim nguyệt, giúp phúc điềm lành giải cứu trừ tai ách, nay thấy nữ tướng chiêu binh diệt giặc cứu nước thương dân, ta nguyện âm phù theo quân đánh giặc”. Nói xong, trong khoảnh khắc trời quang mây tạnh Trưng Nữ bèn làm lễ bái tạ. Hôm đó là ngày 12 tháng 10, Trưng Nữ hạ chiếu truyền cho các tướng sĩ cử đại binh xuất quân đi đánh Tô Định. Quân giặc thua to, bỏ chạy tán loạn, ta chém đầu chánh tướng cùng sĩ tốt, thu hồi toàn bộ vũ khí lương thực, 65 thành lũy kiên cố của giặc hết thảy thu về Nam bang cảnh thổ. Thắng giặc xong trở về kinh đô, Trưng Nữ xưng ngôi tự là Trưng Nữ Vương cho mở tiệc lớn mừng đại thắng, gia phong cho các tướng sĩ có công; nhân đó, Trưng Nữ Vương nói với các chư tướng rằng: Quân Tô Định sớm bị đánh tan cũng nhờ có thần âm phù trợ, rồi ban lệnh cho sứ thần đến Trang Chương Tuyền, huyện Trường Tân, phủ Hạ Hồng, Đạo Hồng Châu (thôn Lãng Xuyên, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương), loan báo mời các phụ lão đến hỏi sự việc cho rõ ràng: Trang các ngươi có phụng thờ một vị Âm Thần đúng theo húy tự như vậy chăng? Bản trang tâu rằng: Quả đúng, Trang của thần dân phụng thờ thần hoàng có húy tự đúng như vậy. Sứ thần về tâu với Trưng Nữ Vương sắc phong như nguyên húy tự Ngọc Hoa Giao, hiệu tự là Thiên Tiên Ngọc Tướng - Quỳnh Nương Công Chúa. Tặng phong là Nga Hằng Uyển Mỵ Trinh Thục Phu Nhân truyền từ nay về sau linh thiêng hiển ứng. Phong mỹ tự là Đế Ngọc chuẩn phê cho Trang Chương Tuyền phụng thờ (2).

Bia Thần tích - Ảnh: MC

Cho đến ngày 15 tháng Giêng năm Thiên Phúc 918, vua Lê Đại Hành khảo sát cuốn Bách Thần thấy tên một vị phu nhân ghi trong sách nhà vua, cũng linh thiêng hiển ứng với phu nhân nhà Hùng, bèn cho gia phong mỹ tự là Diệu Quang Tuệ Tĩnh Đức Hạnh Đoan Trang Phu Nhân, ban cho Trang Chương Tuyền phụng thờ.

Đến đời vua Lê Thái Tổ, năm 1428, dẹp xong giặc Minh, chém Liễu Thăng bình thiên hạ, vua gia phong cho phu nhân có mỹ tự là Nhất Vị Công Chúa Huệ Hòa Gia Hạnh Liệt Tiết Ôn Cung Anh Linh (tức một vị công chúa nhân ái hòa thuận xinh đẹp, đức hạnh ngay thẳng ôn hòa, cung kính anh linh hiển ứng), sắc chỉ ban cho Trang Chương Tuyền trùng tu cung điện phụng thờ mãi mãi. Đến năm 1917, vua Khải Định cho tạc dựng Lãng Xuyên thần tích bi và phụng thờ.

Chuẩn theo điển tích sắc ban đến nay, cứ đến ngày 12 tháng 10 âm lịch, dân làng lại tổ chức lễ kỷ niệm thành hoàng ghi trên bia thần tích để tưởng nhớ vị thiên thần có công với nước với dân làng, quy định hai năm một lần cứ vào ngày 15 tháng Giêng, tổ chức lễ hội long trọng diễn trình rước thành hoàng làng ngự giá tại đình.

3. Giá trị lịch sử văn hóa đình làng Lãng Xuyên

Xuyên suốt chiều dài lịch sử, đình Lãng Xuyên gắn liền với văn hóa tín ngưỡng cộng đồng của người dân địa phương trên bước đường khẩn hoang xây dựng làng xã, hình thành làng mới. Đến nay, đình Lãng Xuyên đã qua nhiều lần xây dựng trùng tu sửa chữa, mở rộng không gian với quy mô bề thế, thể hiện được tính hoành tráng của kiến trúc ngôi đình hàng trăm năm tuổi. Đình Lãng Xuyên còn phản ánh tư duy kiến trúc nghệ thuật độc đáo của các nghệ nhân trong thiết kế kiến trúc, nghệ thuật, kỹ thuật thời kỳ nhà Nguyễn.

Hiện nay, đình còn lưu giữ nhiều di vật cổ quý giá như: đại tự sơn son thiếp vàng, câu đối, cuốn thư, ngai thờ... cùng với các giá trị văn hóa phi vật thể biểu hiện qua tín ngưỡng lễ hội dân gian như nghi lễ thờ, lễ rước, trò chơi dân gian, đấu vật, đánh thó (đánh gậy), buổi tối hát đúm (hát nói, hát mở mặt, là loại hình dân ca với những giai điệu đối đáp do nhiều người tham gia, là loại hình ca hát mang tính cộng đồng, cộng cảm một nét đặc trưng của cư dân ven biển (xưa Lãng Xuyên thuộc vùng biển), hát nhà tơ (gần với ca trù, chỉ xuất hiện ở đình), hát tuồng chèo... trong sinh hoạt cộng đồng mang nội dung tinh thần văn hóa phong phú.

 Những cổ vật giá trị được đình lưu giữ là chứng cứ quan trọng trong nghiên cứu sâu về giá trị lịch sử của đình làng. Đây là nguồn tư liệu giúp các thế hệ sau hiểu được giá trị chân thiện mỹ của cộng đồng người dân qua các thế hệ; cùng với lịch sử đấu tranh của người dân địa phương đứng lên chống cường quyền giặc giã giải phóng xây dựng đất nước. Thế hệ sau hiểu được lịch sử trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm phương Bắc thời Hùng Vương, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, cũng như công đức vị thần hoàng làng qua văn bia thần tích...

Ban thờ Thần hoàng - Ảnh: MC

Hình tượng vị thiên thần Ngọc Hoa Giao thần hoàng đã ca ngợi những giá trị đạo đức tốt đẹp với phẩm chất cao thượng có ý nghĩa nhân văn sâu sắc; Hình tượng vị thiên thần đại diện cho người phụ nữ Việt Nam “anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang”, đồng thời là hình ảnh tiêu biểu sống động người phụ nữ qua các thời kỳ lịch sử không chịu khuất phục trước giặc ngoại xâm khi đất nước lâm nguy. Câu nói: “Ta vốn là tiên cung tiên phủ giáng xuống trần gian, giúp phúc điềm lành giải cứu trừ tai ách... Ta nguyện âm phù theo quân đánh giặc” (3) đã ngấm sâu vào lòng tự tôn dân tộc của mỗi người dân yêu nước. Bà Triệu Thị Trinh “đạp sóng mạnh chém cá kình ở Biển Đông”, những câu nói, lời thề đã tạo nên khí thế mạnh mẽ, cổ vũ tinh thần yêu nước khích lệ nhân dân trong các cuộc đấu tranh chống kẻ thù tàn bạo.

Từ TK XVIII - XIX đình Lãng Xuyên là một chứng tích ghi nhận lịch sử những năm tháng hào hùng của làng xã trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Thời Pháp, ngôi đình đã từng bị giặc càn quét đốt phá di chứng, những vết lửa đen hiện hữu được ghi nhận trên đầu cột cái, cột quân vì kèo là minh chứng cho một thời kỳ lịch sử. Đình Lãng Xuyên từng là nơi che giấu cho cán bộ cách mạng ẩn nấp khi giặc về càn quét lùng bắt nhiều lần. Những đại tự, lọng che là lá chắn ngụy trang tự nhiên về một nơi ẩn nấp lý tưởng mà địch không thể phát hiện ra, những lá chắn này đã nhiều lần cứu thoát những chiến sĩ cách mạng khỏi sự lùng sục của kẻ thù. Trong những năm tháng khó khăn khi giặc Pháp mở rộng vùng càn quét gắt gao nhằm triệt tiêu cách mạng, nơi đây trở thành căn cứ hoạt động bí mật của các cán bộ chiến sĩ cách mạng nòng cốt, cũng là nơi cất giấu vũ khí lương thực phục vụ cho cuộc kháng chiến lâu dài, là điểm tập luyện quân sự địa phương dân quân du kích các xã. Cách mạng Tháng Tám thành công, các đơn vị vệ quốc quân (tiền thân Quân đội nhân dân Việt Nam) đã có mặt đóng quân tại đình này được dân làng tận tình ủng hộ giúp đỡ lương thực thực phẩm (4). Cũng trong cuộc kháng chiến chống Pháp quyết liệt cam go, đình làng Lãng Xuyên là điểm chọn tập kết an toàn cho các đơn vị bộ đội chính quy dân quân du kích các xã hoạt động, là căn cứ bí mật chỉ đạo những kế hoạch xuất quân đi đánh đồn diệt bốt giặc.

Trong cuộc vận động phong trào Bình dân Học vụ (xóa mù chữ) do chính quyền cách mạng phát động, ngay từ những ngày đầu ngôi đình đã trở thành địa điểm chọn mở lớp học dạy chữ cho con em địa phương.

Tiếp nối truyền thống quê hương cách mạng, trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của dân tộc năm 1954 đến 1975, nơi đây trở thành kho thóc để nhân dân địa phương đóng góp. Từ đây, thóc vàng được vận chuyển chi viện khắp chiến trường miền Nam, góp phần vào những chiến công hiển hách của dân tộc và làm rạng rỡ vùng đất lịch sử cách mạng quê hương Lãng Xuyên. Đình đã chứng kiến những lớp thanh niên, những người con ưu tú của quê hương khoác áo lính lên đường tòng quân bảo vệ Tổ quốc, phục vụ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam đánh giặc, thống nhất đất nước.

Trong thời bình, đình làng trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng cộng đồng, nơi thảo luận triển khai các nghị quyết đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nơi hội họp thống nhất tuyên truyền chủ trương việc làng tới người dân.

Có thể nói, sự tồn tại của đình làng Lãng Xuyên xưa và nay mang nhiều ý nghĩa về các giá trị tốt đẹp, một biểu tượng tiêu biểu đình làng quê Bắc Bộ. Sự trường tồn của nó đã mang lại những giá trị tình cảm, niềm tự hào về lịch sử văn hóa sâu sắc với người dân địa phương, mang ý nghĩa lớn trong giáo dục truyền thống quê hương, là nơi bảo tồn giá trị vật thể, phi vật thể và thực hành tín ngưỡng, nơi thể hiện ý chí đại đoàn kết toàn dân trong cộng đồng cư dân.

Kết luận

Đình làng Lãng Xuyên là nơi trình diễn nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng đặc trưng, mang tư duy truyền thống thẩm mỹ của người dân Bắc Bộ qua thể hiện ước vọng tín ngưỡng. Đây cũng là một bảo tàng nhỏ lưu giữ những nét văn hóa vật thể, phi vật thể, lễ hội, hiện vật thờ, phong tục tập quán, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, ca vũ, trò dân gian.

Trải qua 3 thế kỷ thăng trầm của lịch sử, ngôi đình đã gắn bó mật thiết với người dân địa phương, gửi gắm những tình cảm mật thiết, hướng người dân nhớ cội nguồn cùng với triết lý truyền thống “ăn quả nhớ người trồng cây”. Đây còn là cõi thiêng hướng lòng tự tôn dân tộc, cũng là nơi mỗi người dân có trách nhiệm bảo tồn phát huy giá trị văn hóa tín ngưỡng cộng đồng của mình.

Hiện nay, đình còn là địa điểm sinh hoạt của cán bộ nhân dân địa phương, vì vậy, đình Lãng Xuyên có ý nghĩa là nơi giáo dục truyền thống trên quê hương, với phương châm truyền nhân để lại Thần tích anh hùng, Cổ vật quý báu, Đình ích quốc lợi dân. Người dân quê hương luôn hướng giữ bồi đắp cho di tích văn hóa đình ngày càng vững đẹp, nêu cao tinh thần “hộ quốc tế dân” của “Thượng Đẳng Thần”, di tích sẽ trường tồn mãi mãi trong lịch sử hào hùng của vùng quê thân yêu.

_______________

1, 4. Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Gia Tân từ 1930 đến 1975, tập 1, 1993.

2, 3. Phạm Thanh Tuyền (nhiều tác giả), Những bài viết nhân dịp lễ hội đón bằng di tích lịch sử, đình làng Lãng Xuyên cấp quốc gia 2006, Lãng Xuyên, Gia Tân, Gia Lộc, 2006.

Tác giả: Hoàng Minh Của

Nguồn: Tạp chí VHNT số 433, tháng 7-2020

;