Ngày 29-11, tại trụ sở Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến tại các điểm cầu. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì và phát biểu chỉ đạo hội nghị.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng đồng chủ trì Hội nghị - Ảnh: VGP
Cùng chủ trì hội nghị có: Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng. Tham dự có các Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, lãnh đạo các Ban, Bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo các địa phương trong vùng và hơn 4.300 đại biểu từ các điểm cầu trong cả nước.
Vùng đồng bằng sông Hồng gồm 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, được phân thành 2 tiểu vùng là: Tiểu vùng Bắc đồng bằng sông Hồng , gồm 7 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên; và Tiểu vùng Nam đồng bằng sông Hồng, gồm 4 tỉnh: Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Đây luôn luôn là địa bàn cốt lõi của Vùng Thủ đô, có ý nghĩa chiến lược, quan trọng bậc nhất của cả nước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại…
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo tại hội nghị - Ảnh: VGP
Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng, ngày 14-9-2005, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành nghị quyết số 54-NQ/TW và ngày 28-10-2011, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Kết luận số 13-KL/TW về Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và thời kỳ 2011 - 2020.
Qua 17 năm thực hiện Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị các khóa IX và XI, Vùng Đồng bằng sông Hồng luôn khẳng định được vị trí, vai trò của một vùng kinh tế động lực, có đóng góp to lớn, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu cho tăng trưởng kinh tế của cả nước, thúc đẩy, hỗ trợ các vùng khác cùng phát triển. Quy mô kinh tế của Vùng được mở rộng; tỉ trọng đóng góp vào GDP cả nước tăng từ 26,9% năm 2010 lên 29,4% năm 2020; thu nhập bình quân đầu người cao hơn 1,3 lần so với bình quân chung cả nước; tổng thu ngân sách nhà nước của Vùng chiếm tới 32,7% tổng thu ngân sách của cả nước, tốc độ tăng thu bình quân là 16,7%/năm; tổng vốn đầu tư xã hội gấp 19,7 lần năm 2005 và chiếm 35,1%, đứng đầu cả nước...
Tuy nhiên, Vùng Đồng bằng sông Hồng vẫn còn một số mặt hạn chế, vì vậy đã đặt ra yêu cầu ban hành Nghị quyết mới , góp phần tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, có tính đột phá trong công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở Vùng Đồng bằng sông Hồng và cả nước trong giai đoạn phát triển mới.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh trình bày báo cáo về một số nội dung chủ yếu của Nghị quyết số 30-NQ/TW; Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh báo cáo chương trình hành động của Ban Cán sự Đảng Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW; Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương trình bày chương trình hành động của Đảng đoàn Quốc hội triển khai thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW; Lãnh đạo một số bộ, ngành địa phương phát biểu ý kiến.
Trong tham luận tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng nhận định: Đây là nghị quyết thứ 6 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế vùng. Trong đó, lĩnh vực văn hóa đã được Bộ Chính trị đề cập hết sức đầy đủ, toàn diện và có nhiều điểm mới. Nghị quyết cũng đã xác định, vùng Đồng bằng sông Hồng là nơi hội tụ và lưu giữ nhiều, giá trị văn hóa, lịch sử đặc biệt của dân tộc chúng ta. Nghị quyết cũng đặt vấn đề phải phát triển hài hòa kinh tế với phát triển văn hóa như tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư “Phải đặt văn hóa ngang tầm với kinh tế và chính trị”. Đồng thời với việc đó, Nghị quyết yêu cầu phải giữ gìn, phát huy được bản sắc, các giá trị văn hóa lịch sử của vùng.
“Trên cơ sở các quan điểm, các nhiệm vụ được nêu ra, trong Nghị quyết 30 đã cho thấy có rất nhiều điểm mới về văn hóa. Vì vậy, thay mặt cho toàn ngành Văn hóa, chúng tôi xin được trân trọng cảm ơn sự quan tâm, lãnh đạo sâu sắc của Bộ Chính trị, để trên cơ sở này ngành Văn hóa sẽ tiếp tục tham mưu cho các cấp ủy đảng, cùng với các địa phương tổ chức thực hiện nghị quyết có hiệu quả, nhất là cụ thể hóa sâu sắc hơn chương trình hành động của chính phủ để tập trung thực hiện Nghị quyết”- Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng nhấn mạnh.
Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng trình bày tham luận tại Hội nghị - Ảnh: Trần Huấn
Để thực hiện nghị quyết, Bộ trưởng cho rằng, ngành Văn hóa cũng như toàn địa phương trong khu vực, cần phải quán triệt các quan điểm lớn, từ đó để nhận diện sâu sắc hơn về những tiềm năng, thế mạnh văn hóa của vùng. Trong đó, xác định, đây là vùng có truyền thống văn hóa lâu đời, là chiếc nôi để hình thành nền văn hóa người Việt cổ gắn liền với văn hóa Đông Sơn, là đế đô của nhiều triều đại phong kiến.
Nếu như ở nghị quyết 13 của Bộ Chính trị xác định ĐBSCL là vùng đất “Chín rồng” và “thành đồng” của Tổ quốc, thì nghị quyết 30 lần này cũng đã đề cập đến hào hùng khí thế của rồng bay khi mà “Thủa trước mang gươm đi mở cõi/ Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Chính vì vậy, vùng đất này luôn luôn gắn liền với văn hóa của xứ Kinh Bắc, văn hóa của xứ Đông, xứ Đoài, là chiếc nôi của nghệ thuật chèo, của dân ca quan họ, được UNESCO ghi danh là di sản phi vật thể của nhân loại. Trong vùng cũng có những tiềm năng văn hóa, tài nguyên văn hóa hết sức phong phú, đa dạng.
Bộ trưởng cho rằng, văn hóa là lĩnh vực rất rộng, vì vậy, quá trình thực hiện vừa phải toàn diện nhưng đồng thời cũng có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình và bước đi thích hợp. Với cách tiếp cận này, Bộ VHTTDL cũng mong muốn địa phương trong vùng, chúng ta cùng đồng hành để tổ chức thực hiện một số công việc, làm yếu tố cơ bản trong vấn đề triển khai nghị quyết, đưa nghị quyết vào thực tiễn cuộc sống.
“Với cách tiếp cận đó, chúng tôi đề nghị phải tập trung xây dựng môi trường văn hóa ở cơ sở. Ở đây nó gắn liền với yếu tố giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa, không gian văn hóa, văn hóa làng xã, mang dấu ấn riêng của vùng. Từ đó, phải xem xét mối quan hệ của dòng họ, của địa bàn, của hệ giá trị gia đình văn hóa. Và theo đó, ngoài những thành tố, những nội hàm về phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam đã được nêu trong các nghị quyết của Đảng như yêu nước, đoàn kết, nhân ái, khoan dung, dũng cảm, cần cù, sáng tạo. Tôi nghĩ rằng, khi chúng ta cụ thể hóa và thực hiện hệ giá trị về văn hóa, về con người Việt Nam, phải chăng còn phải chú ý thêm nét hào hoa tinh tế của vùng đất Đồng bằng sông Hồng để với tư cách là chủ thể, người dân sẽ là sáng tạo giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa như tinh thần nghị quyết đã nêu”- Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng nói.
Bộ trưởng cũng nhấn mạnh: Một điểm tiếp theo nữa là phải tập trung phát triển ngành Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn như tinh thần nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị. Theo đó, sản phẩm du lịch phải mang đậm dấu ấn văn hóa, chính vì vậy, phải tập trung xác định, Thủ đô sẽ làm trung tâm để kết nối, liên kết vùng để phát triển, liên kết các sản phẩm du lịch. Chúng ta sẽ có các sản phẩm hành trình qua miền di sản như: Hà Nội - Tràng An, Hà Nội - Hạ Long, Côn Sơn - Kiếp Bạc, Trà Cổ - Vân Đồn và nhiều sản phẩm tương tự khác để chúng ta đưa ngành kinh tế này gắn kết giữa du lịch với văn hóa, trong đó văn hóa giữ vai trò động lực.
“Vấn đề cuối cùng, tôi nghĩ rằng để thực hiện nhiệm vụ mà nghị quyết đề ra, chúng ta phải huy động được nhiều nguồn lực. Trong đó, nguồn lực đầu tư công giữ vai trò chi phối, còn phải tạo cơ chế để huy động các nguồn lực khác, từ tôn tạo, phát huy, giữ gìn các giá trị di tích lịch sử và cũng mong muốn Bộ Chính trị, Chính phủ, Quốc hội quan tâm để đầu tư các thiết chế văn hóa cho các địa phương này. Vừa đảm bảo được các thiết chế theo quy định của pháp luật, nhưng đồng thời cũng có những thiết chế văn hóa, thể thao đạt cấp vùng có điều kiện để chúng ta thực thi nghị quyết"- Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng nhấn mạnh.
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, qua 17 năm thực hiện Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị các khóa IX và XI, các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân trong Vùng đã phát huy truyền thống văn hiến, cách mạng, anh hùng vẻ vang và những tiềm năng, lợi thế vượt trội, nhất là về nguồn nhân lực, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, liên tục phấn đấu đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng.
Tuy nhiên, vùng đồng bằng sông Hồng vẫn còn một số mặt hạn chế đó là: Kinh tế - xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế vượt trội và vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của Vùng; quy mô kinh tế còn nhỏ, các ngành sản xuất với công nghệ hiện đại chiếm tỷ lệ thấp, chưa tạo được tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền vững hơn nữa.
Liên kết, hợp tác giữa các địa phương trong vùng chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp. Nhiệm vụ phát triển thành phố Nam Định thành đô thị hạt nhân của tiểu vùng Nam đồng bằng sông Hồng và xây dựng Khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn (Quảng Ninh) chưa hoàn thành. An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, năng lực quản lý nhà nước ở một số địa phương còn hạn chế.
Nghị quyết xác định rõ quan điểm: Vùng đồng bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa, lịch sử đặc sắc của dân tộc. Khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội để phát triển nhanh, bền vững vùng đồng bằng sông Hồng thực sự là vùng động lực phát triển hàng đầu, có vai trò định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết mới của Bộ Chính trị về phát triển Vùng Đồng bằng sông Hồng - Ảnh: VGP
Phát triển vùng phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hệ thống quy hoạch quốc gia. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết và phát triển vùng đủ mạnh, thiết thực, hiệu quả; thí điểm một số mô hình, cơ chế, chính sách mới; tăng cường liên kết nội vùng, liên vùng; phát huy vai trò và khai thác hiệu quả các hành lang, vành đai kinh tế, cực tăng trưởng, trung tâm kinh tế, hệ thống đô thị để tạo đột phá phát triển vùng.
Khai thác và phát huy các thế mạnh của vùng về địa chính trị, địa kinh tế, điều kiện tự nhiên, các giá trị văn hóa, lịch sử; huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là đất đai, nhân lực chất lượng cao; phát triển nhanh mạng lưới đô thị với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; đi đầu trong ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, xã hội số; cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, thu hút nguồn lực đầu tư từ các thành phần kinh tế để tập trung phát triển các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, xanh, tuần hoàn, bảo đảm đồng bằng sông Hồng trở thành vùng phát triển hiện đại, văn minh, sinh thái dẫn đầu cả nước.
Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa, giá trị lịch sử, nhất là văn hóa đồng bằng Bắc bộ. Phát triển hệ thống y tế, giáo dục - đào tạo chất lượng cao, hiện đại, tương đương với các quốc gia phát triển trong khu vực. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của Nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị. Chú trọng bảo vệ môi trường, chủ động phòng, chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh toàn diện. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; đẩy mạnh phân công, phối hợp và phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tăng cường, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân.
Về mục tiêu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, có thể xem đây là nội dung hoàn toàn mới. Nghị quyết đã xác định rất rõ mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Phấn đấu đến năm 2030, vùng Đồng bằng sông Hồng phát triển nhanh, bền vững, có cơ cấu kinh tế hiện đại, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc; tập trung phát triển công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn; trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước; đi đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; có hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại và hệ thống đô thị thông minh, kết nối...
Đến năm 2045, Đồng bằng sông Hồng là vùng phát triển hiện đại, văn minh, sinh thái; là trung tâm hàng đầu của cả nước về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, thông minh và một số trung tâm kinh tế, tài chính lớn mang tầm khu vực và thế giới. Hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới, thông minh, xanh, bền vững. Người dân có thu nhập cao, đời sống hạnh phúc và thịnh vượng...
Thứ trưởng Hoàng Đạo Cương chủ trì điểm cầu Bộ VHTTDL - Ảnh: Tuấn Minh
Về nhiệm vụ và giải pháp, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, Nghị quyết lần này đề ra đầy đủ, đồng bộ các giải pháp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, bao gồm các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng; chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh và bền vững vùng, các tiểu vùng và các địa phương trong vùng; phát triển khoa học - công nghệ, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh; xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh...
Để tổ chức thực hiện có kết quả Nghị quyết lần này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị, phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm. Trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm của cả nước, của toàn vùng, của từng địa phương trong vùng, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý, phải khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống văn hiến, cách mạng, tinh thần yêu nước; tính chủ động, sáng tạo; ý chí vươn lên, tự lực, tự cường của cán bộ, đảng viên và nhân dân các địa phương trong vùng; quyết vượt lên chính mình, khắc phục tư tưởng tự mãn, bằng lòng với những gì đã làm; trái lại, phải có ý chí và quyết tâm cao hơn nữa, quyết vươn lên làm cho bản thân, gia đình và quê hương, đất nước giàu mạnh và tốt đẹp hơn, dẫn đầu cả nước.
Trên cơ sở đổi mới về tư duy và nhận thức, Vùng cần khẩn trương đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển. Chính phủ và các cơ quan ở Trung ương cần tăng cường phối hợp với các địa phương trong Vùng sớm xây dựng, hoàn thiện, ban hành và triển khai thực hiện luật pháp, chính sách ưu tiên vượt trội, có tính đột phá cao cho phát triển vùng.Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị, chú trọng và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng bộ máy tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Nghiêm túc thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị...
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu, ngay sau Hội nghị này, các cấp ủy và tổ chức đảng ở Trung ương và các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong toàn hệ thống chính trị ở các địa phương trong vùng cần khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, chương trình học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết gắn với tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ cần ráo riết chỉ đạo, khẩn trương xây dựng, ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết; giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương trong vùng...
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tin tưởng, cấp ủy, chính quyền và nhân dân các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng cùng với các ban, bộ, ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền các cấp trong cả nước, đã đổi mới, nỗ lực phấn đấu rồi, càng đẩy mạnh đổi mới, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn nữa, quyết thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Bộ Chính trị, tạo ra bước chuyển biến mới có tính đột phá trong việc phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng Đồng bằng sông Hồng, theo tinh thần: “Cả nước vì Đồng bằng sông Hồng; Đồng bằng sông Hồng vươn lên cùng cả nước và vì cả nước”. Phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống văn hiến, cách mạng, anh hùng vẻ vang và tiềm năng, lợi thế vượt trội để luôn luôn xứng đáng là trung tâm chính trị đầu não quốc gia; là một trong hai động lực phát triển mạnh mẽ hàng đầu trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, có nhiều đóng góp to lớn hơn nữa cho việc hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
NGÔ HUYỀN