1. Chính sách kinh tế trong văn hóa
Chính sách là công cụ quản lý nói chung, quản lý kinh tế xã hội nói riêng của Nhà nước trong một thời kỳ nhất định. Chính sách kinh tế trong văn hóa có thể được hiểu là tổng thể các quan điểm, biện pháp... mà Nhà nước sử dụng nhằm tác động lên các cá nhân, tổ chức, đơn vị hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa để đạt đến những mục tiêu văn hóa trong một thời kỳ nhất định.
Các quan điểm là căn cứ của kiến giải, thể hiện năng lực và trình độ của Nhà nước để nghiên cứu, giải quyết các vấn đề quản lý vừa bảo đảm thực thi đường lối chủ trương của Nhà nước, vừa đạt các mục tiêu phát triển cụ thể cho từng giai đoạn phát triển sự nghiệp văn hóa của đất nước. Các quan điểm chính là các nguyên tắc thể hiện bản chất của một chế độ xã hội được dùng để xem xét mọi vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa của đất nước. Để chính sách kinh tế trong văn hóa đạt tới mục tiêu hiệu quả, Nhà nước phải có quan điểm nhất quán trong quá trình thực hiện mục tiêu.
Quan điểm của Nhà nước về chính sách kinh tế trong văn hóa ở nước ta hiện nay là: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động văn hóa; phát triển nhiều thành phần kinh tế tham gia các hoạt động văn hóa; đưa khoa học, công nghệ vào phát triển sự nghiệp văn hóa; gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế, đáp ứng tốt nhu cầu công chúng; khai thác các tiềm năng kinh tế chính trong các hoạt động văn hóa, giá trị văn hóa; kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa.
Các biện pháp quản lý là phương pháp hành động được Nhà nước lựa chọn, sử dụng để thực hiện những mục tiêu quản lý cụ thể. Nếu các quan điểm mang tính chỉ đạo chiến lược thì các biện pháp nghiêng về tính tác nghiệp, tính điều hành cụ thể. Ví dụ, việc sử dụng khoa học kỹ thuật như một đòn bẩy trong phát triển văn hóa là một quan điểm, thì biện pháp quản lý là việc lựa chọn loại công nghệ thích hợp, là nguyên tắc, cách thức sử dụng công nghệ hiện đại phù hợp với lĩnh vực văn hóa cụ thể.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã xác định rõ vấn đề văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa và đưa quan điểm về chính sách kinh tế trong văn hóa: “Chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa, đồng thời đảm bảo yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”.
Chính sách kinh tế trong văn hóa thể hiện việc phải gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế và ngược lại. Nói cách khác, yếu tố văn hóa phải được thể hiện như một yêu cầu bắt buộc và là mục tiêu hướng tới của các hoạt động kinh tế. Mặt khác, yếu tố kinh tế phải là nền tảng vật chất cho các hoạt động văn hóa phát triển, mục tiêu kinh tế trong các hoạt động văn hóa phải song hành với các mục tiêu văn hóa xã hội. Chính sách cũng đề cập đến việc Nhà nước cũng như các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp cần khai thác các tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ, đầu tư cho các hoạt động văn hóa - một dạng hoạt động đặc thù trong nền sản xuất phi vật chất. Các hoạt động văn hóa đó phải đảm bảo yêu cầu chính trị, tư tưởng và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, trong đó vấn đề khai thác các tiềm năng, giá trị kinh tế chính trong các hoạt động văn hóa cũng cần được đặt ra như một tiêu chí đánh giá chất lượng trong điều kiện nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Chính sách kinh tế trong văn hóa còn được hiểu một cách cụ thể hơn là cơ chế quản lý, hành lang môi trường pháp lý, chính sách đầu tư hấp dẫn do Nhà nước tạo ra để thu hút mọi thành phần kinh tế và các nguồn lực xã hội phát triển sự nghiệp văn hóa, thúc đẩy các hoạt động văn hóa phát triển thích ứng với quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
2. Định hướng chính sách kinh tế trong văn hóa
Sinh thời, Hồ Chí Minh đã xác định văn hóa là một mặt trận, cán bộ văn hóa là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Thấm nhuần tư tưởng của Người, từ Đại hội Đảng khóa VI, Đảng ta luôn đặt ra và xác định vấn đề cơ sở nền tảng, then chốt để phát triển văn hóa, hình thành chính sách kinh tế trong văn hóa, phát triển sự nghiệp văn hóa, để văn hóa thực sự trở thành động lực, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. “Nhà nước có chính sách đúng đắn đối với các loại sản phẩm văn hóa khác nhau”(1). Đảng ta đã quan tâm nhiều đến các hoạt động văn hóa nghệ thuật và sản phẩm của các hoạt động này trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội. Thị trường văn hóa vốn là một vấn đề mới và nhạy cảm, vì vậy, Đảng ta nhắc nhiều đến những thực trạng và các nhiệm vụ quản lý phát triển yếu tố khác cấu thành nội hàm thị trường văn hóa chứ không nói trực tiếp đến thuật ngữ thị trường. “Về thông tin đại chúng còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa kịp thời phát hiện và lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra… Khuynh hướng thương mại hóa, lạm dụng quảng cáo để thu lợi còn khá phổ biến”… (2). “Không ngừng nâng cao trình độ chính trị và nghề nghiệp, chất lượng tư tưởng, văn hóa của hệ thống truyền thông đại chúng. Khắc phục xu hướng thương mại hóa trong hoạt động báo chí xuất bản”(3). “Hoàn chỉnh các văn bản pháp luật về văn hóa, nghệ thuật, thông tin trong điều kiện của cơ chế thị trường; ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo văn hóa và nâng cao mức đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân” (4).
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII cũng đã nêu và trình bày khá rõ các quan điểm về chính sách kinh tế trong văn hóa, chính sách văn hóa trong kinh tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, sau 15 năm đất nước đổi mới với những thành tựu đạt được cũng như hạn chế đã trải qua trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010, Đảng ta đã mạnh dạn khi nói tới thị trường: “Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước” (5). Tạo lập và phát triển thị trường nói chung, trong đó có thị trường văn hóa cũng là một trong những nội dung lớn, cốt lõi của chính sách kinh tế trong văn hóa của Đảng ta. “Hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường: Phát triển thị trường vốn tiền tệ, thị trường bất động sản, mở rộng thị trường lao động, phát triển các thị trường dịch vụ”(6).
Trong phần phát triển văn hóa xã hội, Đảng ta lần đầu tiên nhắc đến thị trường của các sản phẩm thuộc lĩnh vực văn hóa tư tưởng và nêu rõ: “Phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa, thể thao phong phú, lành mạnh” (7).
Nghị quyết Trung ương 6 khóa X đã khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng khẳng định sự tồn tại khách quan, lâu dài và khuyến khích sự phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế”. Văn kiện đạị hội Đảng khóa XI tiếp tục nhấn mạnh về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (8).
Bên cạnh các văn kiện Đại hội Đảng, hàng loạt chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng có đề cập ít nhiều đến chính sách kinh tế trong văn hóa và những yếu tố liên quan. Các văn bản đều thể hiện định hướng rõ ràng về chính sách kinh tế cho các hoạt động văn hóa của đất nước. Từ việc nâng cao công tác quản lý, đến nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ văn hóa, đầu tư phát triển đúng hướng chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc hình thành một ngành công nghiệp văn hóa nói chung, một ngành kinh tế công nghiệp xuất bản nói riêng phát triển vững chắc…
Mặc dù các sản phẩm, dịch vụ văn hóa, thị trường văn hóa trong các văn kiện ít được nhắc đến cụ thể, nhưng cốt lõi vấn đề vẫn được Đảng định hướng, chỉ đạo sát sao. Những vấn đề như nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa (sách, báo, văn hóa phẩm…), chất lượng các dịch vụ văn hóa, đầu tư cơ sở vật chất thích đáng cho hoạt động này, quản lý tốt thị trường văn hóa nhằm đáp ứng tốt nhu cầu xã hội… trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, chính là vấn đề khai thông, làm lành mạnh hóa môi trường phát triển của thị trường văn hóa, những tiền đề quan trọng cho việc xây dựng chính sách kinh tế trong lĩnh vực văn hóa.
Tuy nhiên, phải trải qua nhiều năm kinh nghiệm lý luận, thực tiễn, cho đến Đại hội Đảng khóa IX, Đảng ta mới chính thức công nhận sự tồn tại của thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa, đồng thời khẳng định phải “phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa” cũng như đặt ra nhiệm vụ phải “tăng cường đầu tư ngân sách cho văn hóa tương ứng tăng trưởng kinh tế”. Đây cũng là một tất yếu của quá trình đổi mới tư duy, thực tiễn quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước trong những năm qua.
3. Thực tiễn vận hành của chính sách kinh tế trong văn hóa
Về chính sách đầu tư vốn, kinh phí hoạt động
Cũng giống như nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế, hoạt động văn hóa cũng nhận được sự đầu tư kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các hoạt động trọng điểm hàng năm. Tuy nhiên, kinh phí đầu tư cho lĩnh vực đặc thù này thường có sự ưu tiên hơn ở nhiều hạng mục và mức độ đầu tư. Đối với các tổ chức, doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước, Nhà nước đầu tư vốn ban đầu hoặc bổ sung vốn khi đơn vị thực hiện nhiệm vụ phát sinh. Đối với các doanh nghiệp cổ phần nhà nước, Nhà nước tham gia góp vốn cùng doanh nghiệp với tư cách là một chủ đầu tư góp vốn, cùng chia sẻ lợi nhuận. Nhà nước khuyến khích các đơn vị tự chủ trong khai thác các nguồn vốn trên thị trường, đặc biệt chủ động bổ sung nguồn vốn từ lợi nhuận đạt được. Nhà nước có chính sách lãi suất vay vốn ưu đãi cho các đơn vị văn hóa. Nhà nước tạo cơ chế, khuyến khích các tổ chức đơn vị chủ động đầu tư vốn vào các mảng, hoạt động văn hóa gắn với thị trường, đáp ứng nhu cầu của thị trường, của công chúng.
Về chính sách hỗ trợ
Ngoài việc hỗ trợ vốn ban đầu cho các tổ chức, doanh nghiệp trong lĩnh vực văn hóa, Nhà nước còn có chính sách trợ giá hàng hóa dịch vụ, miễn giảm thuế cho các hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị, mặt hàng khó bán, nhu cầu thấp (nhưng lại mang giá trị xã hội lớn, hiệu quả văn hóa cao). Đặc biệt, Nhà nước tạo điều kiện ưu tiên mặt bằng hoạt động cho các tổ chức, doanh nghiệp văn hóa. Các thiết chế văn hóa được đầu tư, cơ sở vật chất hạ tầng đảm bảo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động văn hóa của địa phương… Nhà nước cải tiến chế độ tài trợ, đặt hàng đối với điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật, báo chí, xuất bản, nhằm nâng cao mục đích, hiệu quả sử dụng kinh phí tài trợ; thuế đối với báo chí; trợ giá cho một số báo chí, văn hóa phẩm đưa ra nước ngoài nhằm mục đích tuyên truyền đối ngoại, sách báo đưa lên miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân…
Về chính sách thuế
Hiện nay, các tổ chức, doanh nghiệp văn hóa đang thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước thông qua 4 loại thuế cơ bản như: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế xuất - nhập khẩu. Nhà nước có chính sách ưu đãi cho loại hình sản xuất kinh doanh đặc thù này thông qua mức thuế suất, đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế… theo khu vực, vùng miền trên cả nước.
Nhà nước quy định chế độ cụ thể cho các doanh nghiệp đặc thù của ngành văn hóa thông tin (hãng phim, rạp chiếu bóng, hiệu sách, khu vui chơi giải trí, nhà xuất bản, trung tâm triển lãm, tu bổ di tích…) được hưởng mức thuế ưu đãi trong hoạt động kinh doanh (thuế đất, thuế vốn khấu hao cơ bản…).
Đối với việc quy hoạch xây dựng các công trình lớn, chính sách hướng đến một số thiết chế văn hóa cần thiết nhất như thư viện, nhà thông tin, khu giải trí, đảm bảo cảnh quan môi trường cho các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh. Nhà nước thực hiện chính sách miễn, giảm thuế cho các khoản đầu tư, đóng góp của các doanh nghiệp vào sự nghiệp văn hóa…
Về chính sách khuyến khích nhiều thành phần kinh tế đầu tư phát triển văn hóa
Từ những năm 90 TK XX, Đảng, Nhà nước đã chủ trương và triển khai thực hiện sự nghiệp xã hội hóa hoạt động văn hóa. Hoạt động này đã đạt được kết quả đáng kể trong việc thu hút các thành phần kinh tế trong nước tham gia đầu tư các lĩnh vực văn hóa, giải quyết vấn đề khó khăn về vốn trong lĩnh vực văn hóa. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp văn hóa nhà nước đã đạt được những thành tựu đáng kể, giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa người sử dụng, người quản lý và người sở hữu tài sản, thống nhất ba chủ thể làm một. Cổ phần hóa tạo ra động lực sản xuất kinh doanh vì cổ đông gắn quyền sở hữu với thu nhập do họ tạo ra. Họ vừa là người sở hữu, người quản lý doanh nghiệp và đồng thời trực tiếp tạo ra thu nhập. Cổ phần hóa tạo ra khả năng thu hút vốn nhàn rỗi trong dân chúng.
Nhà nước tạo hành lang pháp lý, môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút và bảo vệ đầu tư. Hàng loạt văn bản luật chuyên ngành trong lĩnh vực văn hóa thông tin được ban hành như: luật báo chí, luật xuất bản, luật di sản văn hóa, luật bản quyền, luật sở hữu trí tuệ, pháp lệnh quảng cáo… Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các tổ chức, doanh nghiệp văn hóa hoạt động đạt tới mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội.
Hệ thống các văn bản pháp luật được ban hành đã tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thúc đẩy chất lượng hoạt động của các đơn vị, đem lại các dịch vụ vàng cho công chúng - những người thụ hưởng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa của các tổ chức doanh nghiệp trên thị trường (sân khấu biểu diễn, thị trường du lịch, thị trường sách báo...).
Chính sách kinh tế trong văn hóa của Nhà nước còn thể hiện thông qua việc sử dụng các công cụ luật pháp, kinh tế tài chính để tạo lập thị trường văn hóa, các yếu tố đồng bộ của thị trường, thúc đẩy thị trường văn hóa phát triển đúng nghĩa trong kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế hiện nay (chính sách thuế, giá cả, kích cầu…).
Nhà nước cho phép các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân trong và ngoài nước, thực hiện các hình thức liên doanh, liên kết với một số cơ sở hoạt động văn hóa nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có, phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Nhà nước tạo hành lang pháp lý, môi trường hoạt động cho các tổ chức, doanh nghiệp văn hóa nâng cao năng lực, cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong khuôn khổ của luật pháp.
Các quy định về liên kết trong hoạt động xuất bản, liên kết sản xuất các chương trình phát thanh truyền hình của Nhà nước được ban hành đã mở ra cơ hội để mang những sản phẩm văn hóa yêu thích đến với công chúng. Những cuốn sách hay trong, ngoài nước có mặt và hội tụ nhiều lĩnh vực tri thức, đáp ứng nhu cầu thị trường xuất bản phẩm trong nước, góp phần nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của xã hội. Những bộ phim hay, những chương trình truyền hình thực tế thực sự là sân chơi lành mạnh, thú hưởng thụ mới về các giá trị văn hóa tinh thần của công chúng hiện nay. Đây cũng chính là chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa nhằm động viên sức người, sức của từ các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để xây dựng và phát triển văn hóa, đồng thời nâng cao trách nhiệm, vai trò của Nhà nước. Các cơ quan chủ quản về văn hóa phải làm tốt chức năng quản lý, hướng dẫn nghiệp vụ đối với các hoạt động xã hội về văn hóa.
Chính sách kinh tế còn thể hiện ở việc chú trọng đầu tư hỗ trợ kinh phí cho các tác giả, tài năng trẻ, cho lực lượng văn nghệ sĩ chuyên nghiệp và đội ngũ không chuyên trong các phong trào quần chúng cũng như người lao động sáng tạo trong các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, xuất bản, báo chí. Nhiều sân chơi lành mạnh, phát huy tài năng trí tuệ cho công chúng đã thu hút, tạo điều kiện cho các tài năng còn ẩn khuất trong xã hội như Giọng hát Việt, Bài hát Việt, Tìm kiếm tài năng Việt Nam, Thần tượng âm nhạc Việt Nam, Tiếp sức những ước mơ, Người mẫu Việt Nam…
Nhà nước dùng biện pháp quản lý thông qua chính sách giải thưởng, tôn vinh nghệ sĩ, chính sách cấp thẻ hành nghề đối với nhà báo, nhà văn, biên tập viên nhà xuất bản, cán bộ phát hành, nghệ sĩ biểu diễn, cấp phép hoạt động các dịch vụ văn hóa để giúp cho các nghệ nhân, nghệ sĩ tự do lao động sáng tạo, cống hiến những giá trị văn hóa đỉnh cao cho xã hội.
Về chính sách đa dạng hóa hoạt động sản xuất, kinh doanh
Nhà nước thực hiện cơ chế mở rộng hoạt động kinh doanh dịch vụ (hoạt động thể dục, thể thao, dịch vụ văn hóa…), tạo nguồn thu hỗ trợ cho các hoạt động sự nghiệp của các đơn vị văn hóa - nghệ thuật; chủ động tổ chức các hoạt động có thu; hạch toán kinh doanh, lấy thu bù chi, tạo ra lợi nhuận để tái tạo, mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh trong và ngoài đơn vị; khai thác triệt để các hoạt động văn hóa có hiệu quả kinh tế cao, lấy nguồn thu bù đắp cho các hoạt động sự nghiệp trong đơn vị…
Mở rộng hoạt động chuyên môn có thu như thành lập các trung tâm thực hành, xưởng sản xuất thực hành tại các trường, trung tâm đào tạo; tiến hành liên kết hợp tác đào tạo; tạo ra các hoạt động chuyên môn có thu khác như trường đào tạo có nhiều hình thức, loại hình đào tạo, nhiều bậc đào tạo; thư viện tổ chức thống kê nguồn tài liệu, dịch thuật tác phẩm; bảo tàng, khảo cổ khảo cứu thống kê tư liệu, hiện vật cho nhiều ngành nghiên cứu; nhà văn hóa, trung tâm văn hóa tổ chức các hoạt động bồi dưỡng đào tạo chuyên môn các ngành văn hóa, nghệ thuật cho nhiều nhóm đối tượng trong xã hội….
Mở rộng loại hình hoạt động dịch vụ bằng khai thác các nguồn lực sẵn có của đơn vị như quay phim, chụp ảnh, bán đồ lưu niệm, dịch vụ giải khát tại các điểm du lịch, khu di tích, dịch vụ truy cập thông tin tại thư viện…
Nâng cao tần suất sử dụng, khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật bằng các hoạt động dịch vụ khác như cho thuê cơ sở vật chất kỹ thuật, các trang thiết bị, tổ chức sự kiện cho đơn vị ngành nghề khác trong và ngoài lĩnh vực hoạt động như cho thuê hội trường, sân khấu, phòng học chuyên môn…
Mở rộng thị trường ngoài nước, khuyến khích xuất khẩu sách, báo, văn hóa phẩm cũng như các sản phẩm và dịch vụ văn hóa ra nước ngoài. Bên cạnh đó, Nhà nước khuyến khích các tổ chức doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu. Nhà nước thông qua chính sách văn hóa đối ngoại nhằm mở rộng hoạt động giao lưu, hợp tác về văn hóa của quốc gia và các tổ chức, doanh nghiệp trong nước với nhiều quốc gia, lãnh thổ trên thế giới.
Ngoài ra, Nhà nước còn chú trọng chính sách đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho sự nghiệp văn hóa. Quan tâm phát triển sự nghiệp văn hóa, không chỉ bằng các chính sách kinh tế trực tiếp hỗ trợ hoạt động văn hóa, Nhà nước còn sử dụng gián tiếp chính sách đào tạo - tạo ra những cán bộ nòng cốt trực tiếp tổ chức, quản lý các hoạt động văn hóa ở các cấp từ trung ương đến địa phương.
4. Một số vấn đề đặt ra của chính sách kinh tế trong văn hóa
Đổi mới và nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo, quản lý về chính sách kinh tế trong văn hóa
Cho đến nay, vẫn còn có ý kiến cho rằng văn hóa là một lĩnh vực đặc thù cần phải có sự đầu tư, bao cấp kinh phí từ phía Nhà nước để đảm bảo sự tồn tại, phát triển của các cơ sở hoạt động này. Như vậy, chi ngân sách cho văn hóa là gánh nặng lớn hiện nay, trong khi các nguồn lực của quốc gia ngày một hạn hẹp.
Một số ý kiến khác lại cho rằng, các sản phẩm văn hóa cũng là hàng hóa và cần được trao đổi mua bán tự do trên thị trường, cần phải khơi thông các quan hệ thị trường để quá trình thực hiện giá trị của chúng được nhanh hơn, hiệu quả kinh tế cũng từ đó có thể đạt được. Cũng từ xu hướng thương mại hóa phát triển mạnh, nhiều đơn vị văn hóa chạy theo lợi nhuận đơn thuần, đáp ứng những nhu cầu thị hiếu tầm thường của công chúng, khiến thị trường văn hóa rối loạn…
Song, đa phần ý kiến khẳng định văn hóa là một lĩnh vực đặc thù, cần có cơ chế, chính sách quản lý đặc thù. Tuy nhiên, trên thực tế, cơ chế, chính sách quản lý văn hóa hiện nay còn nhiều bất cập, vênh nhau, không đồng bộ giữa văn bản và thực tiễn. Tính khả thi trong thực tiễn là rất thấp như các quy định về trang phục biểu diễn của nghệ sĩ nói chung, quy định giờ giấc hoạt động của các dịch vụ văn hóa, quy định khoảng cách dịch vụ internet với trường học…
Cần phải nhận thức đúng, đủ và toàn diện về chính sách kinh tế trong văn hóa, coi văn hóa là hoạt động đặc thù ngay trong cả phương thức sáng tạo, lưu thông, phân phối lẫn phương thức tiêu dùng. Chính sách kinh tế trong văn hóa không chỉ nhằm đầu tư các nguồn lực phát triển hoạt động văn hóa mà còn hướng tới việc khai thác các giá trị kinh tế hiện tại và tiềm năng to lớn chính trong các hoạt động văn hóa. Nói cách khác, chính sách này nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong các hoạt động văn hóa, lấy kinh tế làm nền tảng cho các hoạt động văn hóa và ngược lại, phát triển các hoạt động văn hóa nhằm mang lại mục tiêu hiệu quả kinh tế to lớn - nguồn lực vật chất thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Xây dựng chính sách kinh tế trong văn hóa phù hợp với lộ trình phát triển của đất nước trong hội nhập quốc tế
Cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa cần đẩy mạnh công tác tổng kết đánh giá thực tiễn, thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học, xây dựng các luận cứ khoa học, đưa ra các dự báo về các xu hướng phát triển văn hóa, xu hướng tiêu dùng, hưởng thụ văn hóa nhằm hoạch định chính sách kinh tế đúng đắn để văn hóa phát triển lành mạnh trong cơ chế thị trường, phù hợp với đặc điểm, tính chất của từng khu vực địa lý, hành chính cụ thể.
Phân định rõ mảng văn hóa kinh doanh và không kinh doanh
Đối với mảng văn hóa kinh doanh, Nhà nước để bàn tay vô hình của cơ chế thị trường tự điều tiết, sử dụng quy luật cung cầu, giá trị và cạnh tranh để kích thích sản xuất kinh doanh phát triển. Đối với mảng văn hóa thuộc diện không kinh doanh, Nhà nước cần đầu tư tài trợ kinh phí, có chế tài quản lý chặt chẽ. Đối với mảng này, việc xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch cần được tính toán, kiểm tra, giám sát kỹ lưỡng tránh những thiệt hại không đáng có trong quản lý kinh tế cũng như ảnh hưởng tới mục tiêu văn hóa xã hội của địa phương.
Hình thành đội ngũ cán bộ văn hóa chuyên nghiệp, nhạy bén thích nghi với cơ chế thị trường
Nhà nước cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn trong các cơ quan, đơn vị văn hóa để nâng cao năng lực, trình độ xây dựng, triển khai thực hiện chính sách kinh tế trong thực tiễn đời sống văn hóa. Cử các đoàn cán bộ tham gia học tập, khảo sát, nghiên cứu chính sách kinh tế trong văn hóa của một số quốc gia có nền văn hóa phát triển, đặc biệt các nước có chung các điều kiện kinh tế xã hội văn hóa chính trị với Việt Nam. Phân cấp phân quyền quản lý văn hóa ở các địa phương, trao quyền tự chủ trong tổ chức các hoạt động văn hóa cấp địa phương, hướng dẫn triển khai cụ thể hệ thống văn bản và chính sách văn hóa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương.
Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân dân chính sách kinh tế trong phát triển văn hóa
Khuyến khích người dân tham gia các hoạt động văn hóa với nhiều vai trò khác nhau: nhà đầu tư, người sáng tạo văn hóa, người lưu giữ và bảo tồn văn hóa, người tiêu dùng văn hóa thông thái…, làm cho các hoạt động văn hóa trở nên phong phú đa dạng, chất lượng cao, thu hút sức mạnh của các nguồn lực khác nhau trong nền kinh tế nhằm phát triển văn hóa, và ngược lại, văn hóa trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra nguồn lực vật chất phát triển kinh tế xã hội.
Văn hóa vốn chứa đựng những giá trị tinh thần và tiềm ẩn những tiềm năng kinh tế lớn cần được khai thác. Xây dựng chính sách kinh tế trong văn hóa chính là việc tạo dựng nền tảng vật chất tạo đà cho văn hóa phát triển, hình thành các phương thức, biện pháp khai thác phù hợp các tiềm năng kinh tế vốn có từ các hoạt động văn hóa, làm cho văn hóa thực sự không chỉ là nguồn lực phi vật chất mà còn là nguồn lực vật chất lớn mạnh trong sự phát triển kinh tế xã hội, phát triển con người trong xã hội hiện nay.
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.85.
2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.49, 65, 69.
5, 6, 7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 192-193, 321-325, 210.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.204-215.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 384, tháng 6-2016
Tác giả : ĐỖ THỊ QUYÊN