Cách mạng công nghiệp lần đầu tiên vào cuối TK XVIII sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cách mạng công nghiệp lần thứ 2 diễn ra cuối TK XIX nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất. Cách mạng công nghiệp lần thứ 3 diễn ra vào những năm 70 TK XX sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Hiện nay cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Tiến bộ công nghệ sẽ tạo ra sự kết nối giữa thế giới thực, thế giới số và thế giới sinh vật hữu cơ, tạo ra những công cụ sản xuất hội tụ giữa thực và ảo, xuất hiện công nghệ internet vạn vật, thành phố thông minh, trí tuệ nhân tạo, xe tự lái, robot, máy in 3D, vật liệu mới, công nghệ nano… Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có những tác động mạnh mẽ tới các ngành, lĩnh vực cụ thể, giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới sáng tạo các sản phẩm dịch vụ, giảm tiêu hao nguyên nhiên liệu, chi phí sản xuất - vận hành, đồng thời đáp ứng chính xác hơn nhu cầu của khách hàng.
1. Cách mạng công nghiệp 4.0 - xu thế tất yếu mà Việt Nam phải hướng đến
Việt Nam đang chủ động đón nhận xu hướng công nghiệp 4.0. Tháng 5-2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tạo điều kiện tốt nhất cho sự tăng tốc phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam. Những vấn đề đặt ra với Việt Nam trong cuộc cách mạng 4.0 cần được truyền thông làm rõ để tạo sự đồng thuận xã hội, đó là chuyển dịch lao động ở quy mô lớn khi các mô hình kinh doanh mới ra đời, xu hướng tự động hóa phát triển; đào tạo lực lượng lao động chất lượng cao, có năng lực đổi mới và sáng tạo; kiến tạo môi trường phát triển toàn diện, mang tính phổ cập giữa các vùng miền, để mọi người dân được hưởng lợi, cạnh tranh công bằng giữa các loại hình kinh doanh cần phải kiểm soát tốt.
Trong bối cảnh nước ta đang tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, việc xác định đúng ý nghĩa, bản chất, nội hàm, xu hướng vận động của hội nhập quốc tế là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chiến lược, chính sách và các biện pháp cụ thể của phát triển văn hóa trong quá trình hội nhập. Hội nhập quốc tế được hiểu là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực, thẩm quyền định đoạt chính sách và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế, đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia. Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế. Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống: kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội, cũng có thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất, phạm vi và hình thức rất khác nhau, nhưng đều tác động lớn đến chính sách văn hóa của các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Đảng ta luôn khẳng định vị trí và tầm quan trọng của văn hóa. Chính sách văn hóa trong bối cảnh cách mạng 4.0 và hội nhập quốc tế là vấn đề quan trọng của quốc gia nếu muốn phát triển ổn định và bền vững. Cương lĩnh xây dựng đất nước Việt Nam chỉ rõ: xây dựng nền văn hóa mới tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ. Nhà nước tạo điều kiện để công dân phát triển toàn diện giáo dục ý thức công dân, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, giữ gìn thuần phong mỹ tục, xây dựng gia đình văn hóa... Nhà nước có biện pháp sử dụng, kết hợp và phát huy vai trò của xã hội, đoàn thể, nhà trường, gia đình, tập thể lao động và tập thể dân cư trong việc chăm lo và bồi dưỡng hình thành con người mới. Phát huy vai trò văn học, nghệ thuật trong việc nuôi dưỡng nâng cao tâm hồn Việt Nam. Văn học nghệ thuật, có vai trò to lớn trong việc bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn cao đẹp cho con người, đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Chính sách của Nhà nước về vấn đề này là: các hoạt động văn nghệ chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp đều được khuyến khích phát triển, các tài năng văn học nghệ thuật được chăm sóc. Để đảm bảo cho nhân dân được hưởng đầy đủ quyền nghiên cứu khoa học kỹ thuật, sáng tạo văn học, nghệ thuật, Nhà nước đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh, truyền hình, điện ảnh và các phương tiện thông tin đại chúng khác, giữ gìn, tu bổ và bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa, các công trình mỹ thuật công cộng, danh lam, thắng cảnh, nghiêm cấm những hoạt động phi văn hóa, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.
Con người luôn luôn là yếu tố quyết định sự thành công của mọi công cuộc, trong đó có cả công cuộc phát triển kinh tế. Đối tượng của giáo dục và đào tạo là con người, nguồn nội lực cốt lõi của sự tồn tại và phát triển của mỗi một quốc gia. Sự phát triển của quốc gia lại phụ thuộc vào chất lượng của nguồn lực lao động. Kỷ nguyên phát triển mới coi đầu tư phát triển nguồn lực lao động và chất lượng lao động hơn các nguồn đầu tư khác. Vì thế giáo dục có vị trí vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa bằng cách rèn luyện kỹ năng, cải thiện sức khỏe, nâng cao dân trí và cải thiện các vấn đề xã hội. Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác. Các chính sách văn hóa trong hiến pháp là những quy định có tác dụng làm cho chế độ chính trị phục vụ cho sự phát triển bền vững của xã hội. Muốn phát triển bền vững thì kết hợp phát triển kinh tế với phát huy bản sắc văn hóa, đảm bảo công bằng xã hội.
2. Truyền thông ngày càng có vai trò quan trọng trong phát triển xã hội ở Việt Nam
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập, diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển. Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người không ngừng nâng cao. Con người luôn tạo cho cuộc sống của mình trở nên tiện nghi, đầy đủ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Một trong những nhu cầu đó là trao đổi thông tin, sự ra đời của nhu cầu này đã thúc đẩy phát triển của truyền thông. Sức mạnh của ngành truyền thông ngày càng quan trọng đối với cuộc sống của con người.
Trong sự phát triển truyền thông Việt Nam hiện nay, truyền thông chính sách văn hóa phải được đặt lên hàng đầu. Nhiệm vụ của truyền thông là phải truyền thông chính sách văn hóa, giải mã được bản sắc văn hóa, bởi không một nền văn hóa của quốc gia nào lại không được truyền thông qua ngành truyền thông của chính mình. Phát triển văn hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế phải bắt đầu bằng truyền thông chính sách văn hóa. Đây là nhiệm vụ lớn nhất mà giới truyền thông Việt Nam phải đảm nhận: truyền thông chính sách văn hóa và sự phát triển văn hóa Việt Nam trên cơ sở đường lối lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước. Nhận thức mang tính phương pháp luận về truyền thông chính sách văn hóa là tiền đề quan trọng để xây dựng mô hình truyền thông hiệu quả. Theo đó truyền thông xây dựng đồng thuận xã hội về chính sách văn hóa và đồng thuận xã hội thúc đẩy quá trình thực thi chính sách văn hóa. Truyền thông hình thành văn hoá đối thoại; bảo đảm quyền được biết của công chúng đồng thời xây dựng môi trường công khai, minh bạch cho việc thảo luận, xây dựng và thực thi chính sách.
Truyền thông chính sách văn hóa và phát triển xã hội góp phần xây dựng niềm tin của người dân vào Chính phủ. Nếu như những kết quả cụ thể của chính sách văn hóa là mục tiêu của truyền thông chính sách văn hóa trong ngắn hạn thì việc xây dựng niềm tin của người dân với Chính phủ phải là kết quả của truyền thông chính sách văn hóa trong dài hạn. Niềm tin của người dân là yếu tố quan trọng trong việc ổn định chính phủ và tạo ra sự ủng hộ đối với chính sách văn hóa. Năng lực truyền thông là phương tiện chủ yếu giúp người dân tham gia vào xã hội và giúp nhà nước điều chỉnh hành vi và mục đích của công dân. Truyền thông chính sách cần là quá trình đối thoại chính sách, kích thích sự tham gia tích cực, chủ động của công chúng. Sự tham gia của công chúng không chỉ dựa trên nền tảng lợi ích mà cả hiểu biết và trách nhiệm xã hội. Năng lực truyền thông và trách nhiệm truyền thông khi đó trở thành hai mặt của một vấn đề trong mối quan hệ biện chứng thúc đẩy lẫn nhau.
Thực tiễn lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với truyền thông chính sách văn hóa và sự phát triển ở Việt Nam đã cho thấy đây là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm. Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của văn hóa. Trong bối cảnh truyền thông xã hội ngày càng trở nên phổ biến, công chúng ngày càng tiếp nhận thông tin nhiều hơn từ các phương tiện truyền thông xã hội, để đưa chính sách văn hóa vào cuộc sống, truyền thông đóng vai trò rất quan trọng. Truyền thông chính sách văn hóa là cách để Việt Nam chủ động và tích cực hội nhập giao lưu quốc tế, là con đường để văn hóa Việt Nam thực sự trở thành một nền văn hóa mang tính dân tộc và tính thời đại, vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc. Truyền thông chính sách văn hóa sẽ định hướng cho sự phát triển xã hội, làm giàu, phát huy những giá trị văn hóa, là cách thức để bảo đảm sự tồn vong của nền văn hóa quốc gia trong hội nhập toàn cầu. Giá trị văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn hóa dân tộc, là sức mạnh và nguồn lực của phát triển xã hội. Đảng và nhà nướcViệt Nam luôn chú ý đến công tác truyền thông chính sách. Quan điểm nhất quán của nhà nướcViệt Nam là cởi mở với báo chí; mọi hoạt động của Chính phủ, của các cơ quan Nhà nước đều công khai, minh bạch, công bố cho người dân được biết, trừ những nội dung mật theo quy định. Quan điểm này nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một Chính phủ hành động, liêm chính, kiến tạo phát triển, hướng vào phục vụ người dân và doanh nghiệp. Truyền thông chính sách văn hóa nhằm phát huy sáng tạo những giá trị văn hóa truyền thống là con đường để Việt Nam hội nhập quốc tế mà không bị hòa tan theo Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những năm qua, truyền thông của Đảng, Nhà nước đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc nâng cao nhận thức của nhân dân về chính sách văn hóa và phát triển. Truyền thông phát huy vai trò đưa chính sách văn hóa vào đời sống, đưa nhiều tin, bài về hoạt động văn hóa và đời sống văn hóa. Nội dung truyền thông có tính khách quan và tuân thủ chính sách, pháp luật. Đảng và Nhà nước thời gian qua đã có những chủ trương, chính sách phát huy vai trò của truyền thông nói chung và truyền thông chính sách văn hóa nói riêng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên để chủ trương, chính sách văn hóa được truyền thông có hiệu quả hơn nữa, đòi hỏi Đảng, Nhà nước cần phải bổ sung, xây dựng mới chính sách, pháp luật về truyền thông phù hợp hơn nữa với đặc thù xã hội Việt Nam. Hoạt động truyền thông chính sách văn hóa cũng còn một số hạn chế. Nhiều chính sách văn hóa hoặc chưa kịp thời đến được với nhân dân, hoặc chưa được giám sát và phản biện hiệu quả. Một số cơ quan truyền thông đăng, phát các thông tin nhạy cảm về văn hóa, tác động tiêu cực đến dư luận xã hội. Những hạn chế của truyền thông thường do chưa hiểu biết nhiều về đặc trưng văn hóa và tính đặc thù trong chính sách văn hóa. Vai trò của truyền thông trong hoạt động truyền thông chính sách văn hóa chưa thực sự hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của hoạch định chính sách, giám sát và phản biện xã hội đối với chính sách văn hóa và phát triển.
3. Truyền thông chính sách cần luôn đổi mới để thích nghi với môi trường truyền thông hiện đại
Việt Nam luôn chú ý đến công tác truyền thông chính sách. Truyền thông chính sách trong thời đại 4.0 cần phát huy vai trò quan trọng của báo chí truyền thông nhằm hoàn thiện chính sách, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng cùng với mục tiêu xây dựng Chính phủ kiến tạo, vấn đề truyền thông chính sách cần được đổi mới để thích nghi với môi trường truyền thông hiện đại và quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội Việt Nam. Kết quả của sự đổi mới sẽ mở rộng và làm sâu sắc thêm lĩnh vực truyền thông học và văn hóa học ở Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách văn hóa và phát triển xã hội của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay. Những nhà điều hành cấp cao trong tổ chức phải thấy được truyền thông là một yếu tố quan trọng để đạt được mục tiêu trong tổ chức. Cần phải có kỹ năng truyền thông tốt, nói phải đi đôi với làm. Hiệu quả truyền thông được nâng cao khi kết quả phù hợp với mục đích đặt ra, trong mối tương quan với chi phí, nguồn lực, thời gian hợp lý. Cam kết truyền thông tương tác hai chiều, quá trình truyền thông sẽ kém hiệu quả khi chỉ chú trọng đến truyền thông từ cấp trên xuống cấp dưới. Muốn thành công phải tạo ra sự đồng thuận, phải có sự quân bình giữa truyền thông từ cấp trên xuống và từ cấp dưới lên, từ chính phủ xuống dân và nhân dân tham gia giám sát, phản biện xã hội. Truyền thông là một quá trình liên tục. Để phát triển một chiến lược truyền thông hiệu quả, người truyền thông phải thực hiện một tiến trình bao gồm các bước: định dạng công chúng mục tiêu, xác định mục tiêu truyền thông, thiết kế thông điệp, lựa chọn kênh truyền thông, xác định ngân sách cổ động, quyết định về hệ thống cổ động, đánh giá kết quả truyền thông.
Trong hoạt động truyền thông của Việt Nam, báo chí có vai trò rất quan trọng, có chức năng giám sát, phản biện chính sách, thông qua hoạt động báo chí. Bản chất hoạt động của báo chí được thể hiện qua các vai trò xã hội của báo chí như cung cấp thông tin, kiến thức, nâng cao trình độ cho công chúng xã hội. Báo chí tuyên truyền, giám sát, phản biện xã hội trong quá trình lựa chọn, ban hành và thực thi chính sách. Sau khi chính sách đã được quyết định và ban hành, báo chí thực hiện các chiến dịch truyền thông, tham gia giám sát quá trình thực thi chính sách, phân tích đánh giá những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện, giúp Chính phủ điều chỉnh hoặc ban hành các chính sách khác phù hợp với thực tiễn. Kết quả của truyền thông chính sách mà báo chí thực hiện là dư luận từ phía nhân dân, dư luận xã hội. Vấn đề quan trọng của báo chí trong truyền thông chính sách là giúp công chúng nhận thức được chính sách liên quan thiết thực đến họ và buộc họ tham gia quá trình giám sát, phản biện, tạo đồng thuận xã hội trong thực thi chính sách. Đây là trách nhiệm và sứ mệnh lịch sử của báo chí Việt Nam hiện nay.
_______________
Tài liệu tham khảo:
1. Lưu Văn An, Truyền thông đại chúng trong đời sống chính trị các nước phương Tây, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2008.
2. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế Truyền thông chính sách và đồng thuận xã hội, Hà Nội, 2017.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 408, tháng 6 - 2018
Tác giả : NGUYỄN THỊ NGỌC LÂM