Có thể nói, những tiểu thuyết như Đám cưới không có giấy giá thú, Mùa lá rụng trong vườn, Đồng bạc trắng hoa xòe, Mưa mùa hạ… cùng hàng trăm truyện ngắn đã định vị một tên tuổi Ma Văn Kháng trong nền văn học Việt Nam đương đại. Nhà văn Ma Văn Kháng viết nhiều thể loại và đều gặt hái được thành công. Nay đã ở tuổi ngoại bát tuần, ông vừa tái ngộ độc giả với tập truyện ngắn Chim trời bay về sau cơn mưa.
Nhà văn của núi rừng Tây Bắc
Ma Văn Kháng sinh năm 1936, là người làng Kim Liên (Hà Nội) nhưng ông đã lên miền núi từ năm 18 tuổi và sống hơn 25 năm trên vùng cao. Từ trường Thiếu nhi Việt Nam, ông chuyển sang Đội thiếu nhi nghệ thuật của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Sau đó ông được nhận vào trường Thiếu sinh quân Việt Nam rồi sang học trường Trung cấp sư phạm tại Khu học xá Nam Ninh ở Trung Quốc. Sau khi tốt nghiệp, ông trở thành giáo viên cấp hai, giảng dạy môn Văn học rồi trở thành hiệu trưởng trường cấp 3 thị xã Lào Cai. Là một nhà giáo dạy văn, tình yêu với văn chương, với con người và những vùng đất nơi ông đã đi qua đã thôi thúc thày giáo Đinh Trọng Đoàn cầm bút viết văn. Với bút danh lấy cảm hứng từ họ của một người anh đã cứu mạng khi ông mắc sốt rét, Ma Văn Kháng bắt đầu bằng truyện ngắn đầu tay mang tên Phố cụt đăng Báo Văn học năm 1961.
Trong những năm tháng sung sức nhất, nhà văn Ma Văn Kháng may mắn có cơ hội được trải nghiệm cuộc sống ở cả thành thị và miền núi, bởi vậy, những tác phẩm nổi bật nhất của nhà văn đều là những sáng tác xuất phát từ hai đề tài này. Bằng ánh mắt tinh nhạy của một nhà văn, vốn sống dồi dào và ngòi bút sắc sảo, Ma Văn Kháng đã gói trọn những vấn đề thời sự của đất nước qua mỗi thời kỳ, ở mỗi vùng đất ông từng sống với những câu chuyện mang tính nhân văn sâu sắc vào từng trang văn. Có lần ông từng thừa nhận, mỗi tác phẩm đều ứng với một phần cuộc đời ông. Nếu Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải… hay Chim én liệng trời cao là những kỷ niệm 25 năm gắn bó với mảnh đất, con người Tây Bắc thì Côi cút giữa cảnh đời, Giữa dòng đời cuộn chảy là những hồi ức về người thân và gia đình của ông. Một mình một ngựa gắn với quãng thời gian ông làm thư ký ở Tỉnh ủy Lào Cai, còn Mưa mùa hạ là những suy tư về thế sự thời kỳ đổi mới. Mùa lá rụng trong vườn phản ánh chân thực những biến động trong xã hội qua câu chuyện về một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX.
Nhà văn Ma Văn Kháng có sự nghiệp sáng tác dày dặn, đồ sộ với hơn 20 tiểu thuyết, khoảng 200 truyện ngắn. Ông sáng tác khá đều tay, dù cho những năm sau này sức khỏe không còn tốt nhưng ông vẫn đều đặn cho ra mắt tác phẩm mới. Dù đã giảm cường độ viết lách từ năm 70 tuổi nhưng năm 2015 ông vẫn cho ra đời hai tiểu thuyết Người thợ mộc và tấm ván thiên và Nỗi nhớ mưa phùn. Năm 2017, dù phải phẫu thuật mạch vành nhưng ông vẫn xuất bản hai tiểu thuyết Gặp gỡ ở La Pán Tẩn và Chim én liệng trời cao. Năm 2019, ông tiếp tục cho ra mắt tập ký sự tiểu thuyết Mãi mãi một thời thiếu sinh quân với những hồi ức về một thời tuổi trẻ tươi đẹp của mình.
Với phong cách tự sự trữ tình, tác phẩm của ông mang đậm tính hiện thực của đời sống xen lẫn với những triết lý nhân văn. Nhiều tác phẩm của ông đặt ra những vấn đề lớn với bút pháp sử thi, bởi vậy luôn mang tính thời đại. Những năm sau này, dù mang tính hoài cổ nhưng những sáng tác của ông vẫn cập nhật hơi thở thời đại, vì vậy mà luôn được độc giả mọi lứa tuổi đón nhận.
Hành trình ngược không gian và thời gian
Dù đã bước sang tuổi 88, nhà văn Ma Văn Kháng vẫn cho ra mắt tập truyện ngắn Chim trời bay về sau cơn mưa. Tập truyện bao gồm 10 truyện ngắn với hai đề tài quen thuộc, đã trở thành dấu ấn của tác giả: miền núi Tây Bắc và những câu chuyện về sự biến chuyển của cảnh vật, con người trong cuộc sống hiện đại.
Rời xa miền núi Tây Bắc, nhà văn Ma Văn Kháng dẫn dắt người đọc vào hành trình ngược không gian và thời gian trong tâm trí những con người đã đi qua một thời xưa cũ, nơi còn đó một giai đoạn kháng chiến anh hùng, bom đạn khốc liệt của đất nước, ở lại đó những người lính, người con anh dũng đã hi sinh, những nhân tài đất nước giờ chỉ thuộc về miền kí ức. Tròng trành trong nỗi nhớ là sự cô đơn của những con người đã đi qua tháng năm như ông Nam trong Thành phố miền biên, người luôn hoang hoải một nỗi nhớ về người bạn, liệt sĩ, nhà văn, nhà báo Bùi Nguyên Khiết. Hay cũng là Nam, người bị bỏ lại sau chiến tranh, mình mang thương tật, bươn chải giữa chốn đô thị tấp nập, thiếu sự ấm áp của tình người trong Những ngày xa xưa...
Dưới những bóng cau, Bài ca Trăng sáng, Hạng A Tráng, Mùa gặt ở Na Lin, Vợ chồng Mìn và những đứa con, Bên bờ suối Vạch là những truyện ngắn cho thấy cảm hứng bất tận của nhà văn với vùng núi Tây Bắc, nơi linh giác của ông ngay lập tức được phát động từ lần đầu ông đặt chân đến miền cận trên của tổ quốc này, với sự mê hoặc với thiên nhiên, cảnh vật và con người nơi đây. Năm truyện ngắn này ghép thành một bức tranh nhiều màu sắc và tuyệt đẹp về giai đoạn cuối những năm kháng chiến chống Mỹ đến tận mới sau giải phóng của mảnh đất Lào Cai (mà tên gọi thân thuộc hơn và từng được sử dụng là Lao Cai).
Chọn lựa giai đoạn 1970 - 1980, tập truyện như phần nào nhấn vào sự thay đổi, biến động của hoạt động cách mạng cũng như cách nhìn nhận về cuộc sống và thời cuộc của những dân tộc miền núi nơi đây. Ở họ vẫn toát lên tinh thần đấu tranh thuần khiết, mãnh liệt, chân thành và anh dũng cho đất nước, vẫn hướng mình tới những đổi mới sau khi giải phóng với ước mong cuộc sống tốt đẹp trong một niềm tin vào Đảng, nhà nước. Nhưng cũng ở những con người chất phác đó, họ kín đáo, giấu mình trong những phong tục, tập quán cổ xưa nhất, lấy đó làm nguồn lực tinh thần, làm giá trị cốt lõi để tiếp nhận thời đại mới, để chủ động phá bỏ biết bao định kiến, áp buộc của thời chiến đã qua.
Đó là anh thanh niên Hạng A Tráng kiên trì xung phong tòng quân ra tiền tuyến trong suốt một năm liền, tự tôi luyện sức vóc mình bằng những đường cày nặng nhọc nhất trên những mảnh đất khô cằn, khó khăn nhất của bản Y Lìn Hồ. Là Hòa trong Dưới những bóng cau, cô nhân viên trẻ tuổi dưới xuôi lên vận động về công cụ sản xuất cho bà con người Tày, cô gái dần hòa mình với đời sống của người dân tộc Tày, cảm nhận tình yêu thương và sự đùm bọc ấm áp của từng người dân làng chân chất. Hay tình cảm của vợ chồng Mìn - Cơi thấm đậm sự chịu thương, chịu khó, sự thấu hiểu và ủng hộ vợ từ người chồng và sự mạnh mẽ, quyết liệt và tình yêu vô bờ bến của người vợ Mông với người chồng khuyết tật… Mỗi câu chuyện là mỗi phận con người nhưng đều tựu chung lại ở sự gắn kết tình người, như cái cách thiên nhiên khắc nghiệt mà kỳ vĩ nơi dãy núi Hoàng Liên Sơn.
Say mình trong những câu từ khắc tả thiên nhiên hùng vĩ Tây Bắc, nhà văn cũng như muốn dẫn dụ người đọc vào không gian văn hóa đa sắc màu nơi đây, với những lễ hội hoa ban, lồng tồng, hay những chi tiết nhỏ nhất, khơi lên sự tò mò về trang phục, lao động, huyết tộc và sự bình dị, hoang sơ tuyệt đẹp của con người miền núi. Sau đó, dòng văn của ông lại trầm lắng, u buồn và đượm đầy tiếc nuối khi khơi lên những chiêm nghiệm về cuộc đời trải nhiều thăng trầm, cách con người đối diện với mọi đổi thay, khi thì lạc quan, lúc lại buông xuôi mà uất ức. Nhưng tựu lại vẫn là những niềm hi vọng vào tình người - thứ gắn kết vô hình nhưng lại bền chặt nhất của nhân loại, để con người ta sống tiếp, sống cho trọn đời người.
Nhà văn Ma Văn Kháng từng đạt nhiều giải thưởng văn học lớn trong nước và quốc tế, tiêu biểu như: Giải thưởng Văn học ASEAN 1998; Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật 2001. Năm 2012, ông nhận giải thưởng Hồ Chí Minh với cụm tác phẩm Tuyển tập truyện ngắn, cùng ba tiểu thuyết: Mưa mùa hạ, Côi cút giữa cảnh đời, Gặp gỡ ở La Pán Tẩn.
NGỌC ANH
Nguồn: Tạp chí VHNT số 562, tháng 2-2024