Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020 đã nêu rõ: Xã hội hóa (XHH) công tác BVMT vừa là chính sách, vừa là công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện sự quản lý trong lĩnh vực môi trường. Những năm qua, XHH công tác BVMT của tỉnh Bắc Ninh đã góp phần quan trọng vào giữ gìn môi trường xanh - sạch - đẹp; tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn là một bài toán nan giải, do đó việc đẩy mạnh XHH công tác BVMT của tỉnh là vấn đề vừa lâu dài, vừa mang tính cấp bách, là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi tổ chức, cộng đồng dân cư và từng cá nhân.
Tuổi trẻ Bắc Ninh chung tay bảo vệ môi trường. - Ảnh: ttdn.vn
Thực trạng XHH công tác BVMT ở Bắc Ninh
Quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về XHH công tác BVMT, những năm qua, tỉnh Bắc Ninh đã có những chủ trương đúng đắn, sáng tạo, chỉ đạo sâu sát, tổ chức thực hiện nghiêm túc XHH công tác BVMT. Trong Kết luận số 154-KL/TU ngày 5-1-2015 của Thường trực Tỉnh ủy Bắc Ninh Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW ngày 15-11-2004 của Bộ Chính trị “về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” nêu rõ “khuyến khích xã hội hóa đầu tư trong lĩnh vực môi trường” (1). Đến Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015-2020 trong nhiệm vụ và giải pháp xác định “đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường” (2). Nghị quyết 05-NQ/TU ngày 8-11-2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ môi trường tiếp tục yêu cầu “huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế đầu tư cho bảo vệ môi trường; khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia các dịch vụ về bảo vệ môi trường” (3).
Từ chủ trương của Đảng bộ tỉnh, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh đã ban hành các văn bản để cụ thể hóa như Nghị quyết số 31/2016/NQ-HĐND18, ngày 8-12-2016 của HĐND tỉnh Về việc hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp và hạ tầng nông thôn giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 47/2016/QĐ-UBND ngày 21-12-2016 của UBND tỉnh Về quan điểm và nguyên tắc đầu tư xử lý ô nhiễm môi trường nông thôn và ô nhiễm môi trường làng nghề trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2016-2020. Tính riêng trong giai đoạn 2015-2020, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành 50 văn bản (4 nghị quyết, 1 chỉ thị, 17 quyết định, 1 kết luận, 4 thông báo kết luận, 5 kế hoạch và nhiều văn bản chỉ đạo điều hành khác).
Trên thực tế, BVMT của tỉnh đã có chuyển biến tích cực; “có 9/10 khu công nghiệp đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung và xả nước thải đảm bảm quy chuẩn môi trường; 100% các địa phương đã thành lập được các tổ, đội thu gom rác thải từ hộ gia đình đến điểm tập kết; có 8 đơn vị đang tham gia thực hiện công tác thu gom vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt từ điểm tập kết về khu xử lý chất thải tập trung” (4). Cùng với đó, công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về BVMT trong nhân dân được đẩy mạnh. Người dân ngày càng nâng cao nhận thức về tầm quan trọng và các biện pháp BVMT. Ở nhiều địa phương, người dân đã tự nguyện ký cam kết BVMT và đưa nội dung cam kết gắn với việc thực hiện quy ước nếp sống văn hóa của địa phương. Ngoài ra, Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên phát động các phong trào BVMT trong nhân dân. Nhiều mô hình BVMT của các tổ chức, đoàn thể được xây dựng và mang lại hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, XHH công tác BVMT thời gian qua ở Bắc Ninh còn những hạn chế nhất định.
Một là, đối với các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường trên địa bàn tỉnh: chưa xây dựng được các quy định pháp lý để khuyến khích, tạo điều kiện cho tư nhân tham gia sâu rộng vào BVMT. Trong lĩnh vực công nghiệp môi trường: chưa có cơ chế cạnh tranh thật sự lành mạnh, công bằng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước tham gia BVMT. Điều này cho thấy, vai trò của các cơ quan Nhà nước trên địa bàn tỉnh trong tuyên truyền pháp luật BVMT cho người dân và tổ chức thực thi nghiêm các văn bản pháp luật chưa thể hiện rõ nét. Do vậy, thực tế này đã tạo ra một khoảng cách xa giữa việc ban hành văn bản và thực thi văn bản.
Hai là, đối với các tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân: “Nhận thức và trách nhiệm về bảo vệ môi trường chưa thực sự đầy đủ. Việc nhân rộng các phong trào, mô hình của các cấp hội ở cơ sở còn hạn chế, chưa tạo nên sức lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng” (5). Còn tình trạng xả thải bừa bãi ra môi trường tự nhiên, làm cho hoạt động BVMT gặp nhiều khó khăn.
Giải pháp đẩy mạnh XHH công tác BVMT ở Bắc Ninh
Để thu hút sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh về BVMT, cần thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp sau:
Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm về XHH công tác BVMT
Việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp về XHH công tác BVMT được xác định là giải pháp để chữa tận gốc, giải quyết ngay từ nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ở Bắc Ninh thời gian qua.
Nội dung tuyên truyền, giáo dục bao gồm chủ trương, đường lối, chính sách XHH công tác BVMT của Đảng, Nhà nước và các quy hoạch, kế hoạch, đề án XHH các dịch vụ để cộng đồng doanh nghiệp và các nhà đầu tư ngoài khu vực kinh tế nhà nước tiếp cận thuận lợi, đầy đủ, từ đó đưa ra các quyết định đầu tư cần thiết, có trọng tâm và mang lại hiệu quả. Xây dựng và ban hành công khai các văn bản, quy định bắt buộc các cơ quan quản lý nhà nước, các sở, ban, ngành của tỉnh đang cung cấp dịch vụ BVMT cung cấp thông tin theo yêu cầu cho các đơn vị kinh tế ngoài nhà nước có nhu cầu tham gia hoạt động BVMT.
Tăng cường giáo dục ý thức thân thiện với môi trường cho người dân và cần đầu tư nguồn lực tài chính cho công việc này. Bên cạnh đó, cần tạo những điều kiện cơ sở vật chất để người dân, nhất là những người nghèo ở nông thôn có thể thay đổi cách sống, phương thức canh tác có hại đến môi trường. Cần lồng ghép vấn đề BVMT với công tác xóa đói giảm nghèo; gắn kết lợi ích BVMT với lợi ích khác.
Nâng cao ý thức, trách nhiệm BVMT trong các cấp lãnh đạo, quản lý. Theo đó, cần tăng cường giáo dục để nâng cao nhận thức và hành động về BVMT trong các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể. Đặc biệt, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao làm công tác môi trường.
Nâng cao ý thức, trách nhiệm BVMT cho các doanh nghiệp. Tổ chức các lớp đào tạo, nâng cao nhận thức về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với môi trường theo từng nhóm đối tượng; kết hợp chặt chẽ giữa khen thưởng doanh nghiệp thực hiện tốt và xử lý những doanh nghiệp chưa thực hiện nghiêm các quy định BVMT trên các phương tiện truyền thông.
Thể chế hóa các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các tổ chức, đoàn thể, cộng đồng doanh nghiệp, cá nhân tham gia công tác BVMT
Đây là giải pháp để gắn giữa nhận thức với hành động, chuyển hóa từ suy nghĩ đến việc làm của các đối tượng trong công tác BVMT. Thực tế, những năm qua tỉnh Bắc Ninh đã ban hành các quy định nhằm quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các tổ chức, lực lượng tham gia công tác BVMT. Từ khi ban hành Quy định về trách nhiệm người đứng đầu, nhìn chung công tác BVMT trên địa bàn tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực, gắn chặt trách nhiệm của cán bộ chủ trì, người đứng đầu.
Tuy nhiên, tình trạng, hình thức, chưa tâm huyết trong chỉ đạo ở số ít cán bộ chủ trì ở một số cơ quan vẫn là điểm yếu cần khắc phục. Do đó, cần tiếp tục thể chế hóa các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các tổ chức, đoàn thể, cộng đồng doanh nghiệp, cá nhân tham gia công tác BVMT. Người đứng đầu có thành tích trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật về quản lý môi trường và thực hiện tốt các quy định thì được biểu dương khen thưởng kịp thời theo quy định hiện hành của Nhà nước; được xem xét khi giới thiệu ứng cử, bổ nhiệm lại, bổ nhiệm chức vụ cao hơn, xét nâng bậc lương trước thời hạn hoặc cử dự thi nâng ngạch theo quy định của pháp luật…
Đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho công tác BVMT
Nhận thức được vai trò đặc biệt của nguồn lực đầu tư cho công tác BVMT, những năm qua, tỉnh Bắc Ninh rất chú trọng xây dựng và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư BVMT. Từ quan điểm chỉ đạo đó, việc đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư BVMT của tỉnh đã có kết quả rất tích cực. “Hàng năm, tỉnh đều dành một phần ngân sách chi cho sự nghiệp bảo vệ môi trường, chỉ tính riêng từ năm 2015-2019 là 1.113 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 1,78% tổng chi ngân sách địa phương)” (6). Tuy nhiên, kinh phí đầu tư cho công tác BVMT còn chưa đáp ứng các yêu cầu về xử lý ô nhiễm môi trường.
Để tiếp tục đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho công tác BVMT cần: tiếp tục thể chế hóa việc áp dụng công cụ kinh tế; nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền ban hành chính sách hỗ trợ việc xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, cụm công nghiệp, khu dân cư nông thôn. Hoàn thiện và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách để khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư cho công tác BVMT; đầu tư BVMT cần được lồng ghép với các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Quan tâm đầu tư xây dựng công trình xử lý môi trường khu vực công, giải quyết các vấn đề môi trường tồn đọng; triển khai đầu tư xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống xử lý nước thải tập trung đối với các đô thị trên địa bàn các huyện chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Ưu tiên bố trí dự toán chi thường xuyên cho sự nghiệp BVMT đảm bảo nhu cầu kinh phí thực hiện Đề án tổng thể BVMT của tỉnh; quan tâm hỗ trợ đầu tư cho công trình hạ tầng, trang thiết bị thu gom, xử lý rác thải.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về thu, sử dụng giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải, nước thải bảo đảm quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của địa phương
Giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải, nước thải là định mức tối thiểu được Nhà nước đặt ra để thu hút XHH công tác BVMT. Việc đặt ra giá dịch vụ hợp lý, cạnh tranh sẽ góp phần kêu gọi nhiều nhà đầu tư, nhiều doanh nghiệp tham gia thu gom, vận chuyển xử lý rác thải, nước thải, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường như hiện nay.
Qua những giai đoạn khác nhau, tỉnh Bắc Ninh đã có sự điều chỉnh rất linh hoạt, tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về thu, sử dụng giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải, nước thải bảo đảm quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của địa phương. Các quyết định đã được UBND tỉnh ban hành như: Quyết định số 42/2015/QĐ-UBND ngày 28-12-2015, Về việc Ban hành đơn giá vận chuyển và quy trình thu gom, vận chuyển rác thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh; Quyết định số 40/2017/QĐ-UBND ngày 27-12-2017, Về việc Quy định mức giá tối đa dịch vụ thu gom, vận chuyển rác thải sinh hoạt đến điểm tập kết trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh; Quyết định số 10/2019/QĐ-UBND ngày 12-6-2019, Về việc Quy định một số mức chi sự nghiệp bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Việc các văn bản được ban hành, điều chỉnh cho thấy thực tiễn luôn biến động, đòi hỏi phải thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về thu, sử dụng giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải, nước thải bảo đảm quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của địa phương. Đây là điều kiện bảo đảm cho XHH công tác BVMT của tỉnh đi vào thực chất, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và phát triển bền vững.
Kết luận
Mặc dù đã có những bước tiến đáng kể trong XHH công tác BVMT nhưng hiệu quả chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững của tỉnh. Để đạt được những mục tiêu trong tương lai, cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả, có lộ trình các giải pháp; điều đó góp một phần vào giải quyết những vấn đề ô nhiễm môi trường bức xúc hiện nay, từng bước nâng cao chất lượng sống của người dân và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững của Bắc Ninh.
________________
1. Tỉnh ủy Bắc Ninh, Kết luận số 154-KL/TU ngày 5-1-2015 của Thường trực Tỉnh ủy Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW ngày 15-11-2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Văn phòng Tỉnh ủy, 2015, tr.2.
2. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015-2020, Văn phòng Tỉnh ủy, 2015, tr.144.
3. Tỉnh ủy Bắc Ninh, Nghị quyết 05-NQ/TU ngày 8-11-2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ môi trường, Văn phòng Tỉnh ủy, 2016, tr.7.
4, 5, 6. Tỉnh ủy Bắc Ninh, Báo cáo số 351-BC/TU ngày 12-6-2020 Về sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận số 154-KL/TU ngày 5-1-2015 của Thường trực Tỉnh ủy, Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41- NQ/TW ngày 15-11-2004 của Bộ Chính trị Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và 04 năm thực hiện nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 8-11-2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với bảo vệ môi trường, Lưu Văn phòng Tỉnh ủy, 2020, tr.11, 12, 10.
LẠI ANH TUẤN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 563, tháng 3-2024