Phát triển sự nghiệp văn hóa công ích, bảo vệ và thực hiện lợi ích văn hóa cơ bản của nhân dân là sự thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, phải căn cứ vào thực tiễn phát triển đất nước và đặc điểm của hình thái ý thức xã hội trong sự tương thích với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi cấp thiết nhằm phát triển mạnh mẽ hơn nữa sự nghiệp văn hóa ở Việt Nam.
1. Nhận thức mới về sự nghiệp văn hóa trong tình hình mới
Trước thời kỳ đổi mới, quan hệ chế độ sở hữu trong lĩnh vực văn hóa ở nước ta là đơn nhất, các tổ chức văn hóa hầu như bị biến thành các đơn vị sự nghiệp. Từ đổi mới đến nay, mặc dù về thực tiễn, nhiều tổ chức đã thực hiện mô hình đơn vị sự nghiệp, quản lý doanh nghiệp và giúp chúng trở thành những thực thể văn hóa, kinh tế làm ra lợi nhuận, nhưng về cơ bản, quan niệm coi văn hóa là sự nghiệp vẫn còn rất phổ biến. Mãi tới tháng 7 - 2005 Bộ Văn hóa thông tin (nay là bộ Văn hóa ,Thể thao và Du lịch) đưa ra đề án xã hội hóa hoạt động văn hóa, đưa văn hóa ra thị trường và coi văn hóa cũng là ngành nghề sản xuất thì mới bắt đầu tạo tiền đề xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta.
Trước kia, chúng ta coi sự nghiệp văn hóa về cơ bản đã bao hàm định hướng chủ yếu và nội dung cơ bản của văn hóa, và mặc định rằng tự nó đã hàm chứa nội dung xã hội phong phú và tinh thần thời đại rõ nét. Nhưng từ khi chúng ta nhận thức về công nghiệp văn hóa thì tư duy về văn hóa thay đổi: văn hóa bao gồm cả giá trị vật chất và giá trị kinh tế, làm phong phú và nâng cao giá trị và ý nghĩa của văn hóa, vượt quan niệm trước đây về nội hàm và định hướng giá trị của văn hóa. Kết quả là, văn hóa là một thực thể song trùng tính chất, vừa có công năng của thượng tầng kiến trúc vừa có công năng hạ tầng kinh tế. Trong cạnh tranh toàn cầu, văn hóa có ý nghĩa hàng đầu trong việc nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia.
Ngày nay công nghiệp văn hóa đã đi vào chiến lược phát triển kinh tế văn hóa của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, dù vai trò của công nghiệp văn hóa rất quan trọng và ngày càng quan trọng, nhưng nó không thể rời khỏi sự nghiệp văn hóa để tồn tại biệt lập mà phải phối hợp chặt chẽ với sự nghiệp văn hóa, kết hợp thành một chỉnh thể, cùng tồn tại và phát triển. Điều đó xuất phát từ mấy lý do cơ bản: Thứ nhất, sự nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa không thể tách rời nhau hoàn toàn, nhiều khi chúng giao thoa xen kẽ, thấm sâu vào nhau, trong cái này có cái kia, và ngược lại; Thứ hai, nội dung tinh thần và nội dung vật chất của văn hóa như hai mặt của một từ giấy. Nội dung vật chất của văn hóa chỉ có ý nghĩa khi có nội dung tinh thần bên trong, và nội dung tinh thần phải được hiển thị qua vật chất để tồn tại và lưu truyền; Thứ ba, giá trị kinh tế chỉ có thể là một bộ phận hợp thành của giá trị văn hóa, nó không thể trở thành toàn bộ giá trị văn hóa, vì về bản chất, tính chất và công năng của văn hóa là làm thăng hoa tư tưởng, làm trong sạch tâm hồn, làm phong phú trí tuệ, tình cảm của con người. Nhưng để thực hiện mục đích ấy một cách tốt đẹp, phải cần đến sự phối hợp và hỗ trợ của công nghiệp văn hóa. Ngược lại, bất cứ sản phẩm văn hóa và dịch vụ văn hóa nào cũng phải hội tụ được ánh sáng của tư tưởng, tình cảm và trí tuệ thì mới có giá trị đích thực, từ đó mà giành được sự chú ý của mọi người, mở ra thị trường rộng rãi, thu được hiệu quả to lớn.
Nói chung, xây dựng văn hóa trên cơ sở kế thừa và phát huy mạnh mẽ các giá trị văn hóa truyền thống hấp thụ tinh hoa văn hóa ưu tú nhân loại, sự nghiệp văn hóa hướng tới mục tiêu làm phong phú, nâng cao trình độ thẩm mỹ, giác ngộ tư tưởng, bồi dưỡng đạo đức và năng lực tài trí của con người, làm trong sạch và tốt đẹp phong thái xã hội, trật tự sản xuất, quy phạm hành vi và định hướng giá trị, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, tạo ra động lực tinh thần và nâng đỡ trí lực cho phát triển toàn diện con người. Bản chất ấy quyết định tính chất công ích và đặc trưng tinh thần của sự nghiệp văn hóa. Phát triển sự nghiệp văn hóa, vì thế, chủ yếu là phát triển một loại hình đầu tư mang tính công ích xã hội, theo đuổi hiệu quả tinh thần và hiệu quả xã hội; còn phát triển công nghiệp văn hóa là phát triển một loại hoạt động kinh tế nhằm vào doanh lợi, theo đuổi giá trị và lợi nhuận. Đối với một quốc gia, một dân tộc và một xã hội, sự nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa đều rất quan trọng. Nhưng về tương quan, sự nghiệp văn hóa phải có vị trí then chốt, phổ biến hơn công nghiệp văn hóa. Vì đối với bất cứ một quốc gia nào, công nghiệp văn hóa chỉ là vấn đề liên quan đến tốc độ phát triển nhanh hay chậm, nếu không có sự nghiệp văn hóa thì đời sống sẽ thiếu trí năng và linh hồn, xã hội thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh. Do vậy có thể thấy, cấu trúc tối ưu và trạng thái tối ưu của xây dựng văn hóa là sự phối hợp nhịp nhàng của sự nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa.
Sự nghiệp văn hóa đảm nhiệm trách nhiệm của nó thông qua phương thức thấm sâu, hun đúc, giáo dục, cảm hóa giác ngộ, khơi gợi, khích lệ thúc đẩy phát triển toàn diện con người và tiến bộ toàn diện của xã hội, còn công nghiệp văn hóa tuân theo quy luật giá trị sản sinh hiệu quả kinh tế, nhưng nó cũng chia sẻ trách nhiệm giáo dục thẩm mỹ, đẩy mạnh giáo hóa, khơi gợi giác ngộ và khích lệ theo cách riêng của nó. Vấn đề là chúng ta phải phải kiên trì phương hướng phát triển văn hóa đúng đắn, trong quá trình truy cầu hiệu quả kinh tế phải chú ý cả hiệu quả xã hội, liên tục đổi mới để nâng cao hiệu quả kép của hai loại hình văn hóa này. Trong bất cứ tình huống nào, cũng không thể làm tiêu tan hiệu quả xã hội để theo đuổi phiến diện hiệu quả kinh tế, đồng thời phải kiên trì tuân theo quy luật giá trị, trong đó hiệu quả xã hội nằm ở vị trí thứ nhất so với hiệu quả kinh tế. Bản chất văn hóa là nhân văn, dân chủ, khoa học và tiến bộ, vì thế, mặc dù sản phẩm văn hóa là một loại hàng hóa, nhưng nó là loại hàng hóa đặc biệt; dịch vụ văn hóa cũng phải được coi là một thứ dịch vụ đặc thù. Đặc thù của nó là ở chỗ đó là thứ hàng hóa tinh thần, dịch vụ của nó là dịch vụ thẩm mỹ, có nhiệm vụ giáo hóa và khích lệ mọi người không ngừng đổi mới và sống tốt, sống đẹp. Toàn bộ ý nghĩa và giá trị cốt lõi của hàng hóa và dịch vụ thương mại văn hóa là thông qua phép tắc kinh tế và biện pháp thương mại văn hóa thực hiện hưởng thụ thẩm mỹ và nâng cao tinh thần đối với nhân dân, xây dựng phong thái và quy phạm trật tự xã hội, đạt tới tích luỹ, truyền bá và phát huy có hiệu quả đối với tri thức và văn minh. Công năng giáo dục xã hội của văn hóa là thấm sâu lâu bền chứ không diễn ra ngay tức thì. Bởi thế nó cần đến sự kiên trì và đồng thuận của xã hội.
Văn hóa không những là một nhân tố cốt lõi cấu thành sức cạnh tranh quốc tế của quốc gia mà còn là tư bản văn hóa, tư bản xã hội quan trọng và tài nguyên tinh thần dân tộc, quốc gia thực hiện sự phát triển lớn mạnh lâu dài. Trong xã hội hiện đại, đặc tính và công năng của văn hóa không những xuyên ngang kiến trúc thượng tầng và cơ sở kinh tế mà đang trở thành chìa khóa có thể giải quyết nhiều vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội đương đại. Rõ ràng đặc tính mới và sự mở rộng công năng của văn hóa đòi hỏi phải dựa vào hợp sức của sự nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa để hoàn thành tốt sứ mệnh. Có thể khẳng định trong điều kiện hiện đại, sự hòa nhập và thúc đẩy lẫn nhau giữa sự nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa đã trở thành đặc trưng của thời đại. Đó cũng chính là biểu hiện của phát triển bền vững.
2. Phồn vinh sự nghiệp văn hóa, tăng cường lực ảnh hưởng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Công tác văn hóa đặt trọng tâm ở xây dựng và phát triển. Làm sao để mọi người đều được hưởng thụ văn hóa công ích là nhiệm vụ cơ bản của văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, mang lại lợi ích cho quốc gia, và nó cũng là quyền lợi cơ bản của công dân.
Phát triển là nguyên lý bao xuyến sự nghiệp văn hóa
Phát triển là nguyên lý cơ bản, vì thế, phát triển sự nghiệp văn hóa cũng là nguyên lý quan trọng. Nguyên lý này thể hiện: thứ nhất, kiên trì lấy phát triển văn nghệ làm trung tâm, sáng tác nhiều tác phẩm văn nghệ ưu tú, tư tưởng sâu sắc, nghệ thuật tinh tế, phong cách đa dạng, dần hình thành thị trường văn nghệ trên cơ sở phát huy nền nghệ thuật dân tộc làm chủ đạo; thứ hai, hình thành mạng lưới văn hóa quần chúng sâu rộng, kết hợp giữa văn hóa chuyên nghiệp và văn hóa phong trào, chú trọng các hoạt động, công trình văn hóa trọng điểm, thúc đẩy đời sống văn hóa cơ sở, nhất là văn hóa ở nông thôn và miền núi; thứ ba, kiên trì bảo hộ di sản văn hóa, khai quật và nghiên cứu khảo cổ, xây dựng hệ thống bảo tàng hợp lý, hiệu quả; thứ tư, đẩy mạnh giao lưu văn hóa quốc tế; thứ năm, sự nghiệp giáo dục nghệ thuật phát triển ổn định, nghiên cứu lý luận văn hóa khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật đạt được nhiều thành quả mới, thị trường văn hóa hình thành và phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng văn hóa thành phố và nông thôn đủ mạnh.
Tuy nhiên, có một số vấn đề cần chú ý trong phát triển sự nghiệp văn hóa: nhiều địa phương và ban ngành chưa nhận thức đúng vai trò và tầm quan trọng của văn hóa, chưa đưa công tác văn hóa vào chương trình nghị sự hàng ngày của Đảng ủy, chính quyền, một số nhiệm vụ xây dựng văn hóa không được thực thi; kinh phí sự nghiệp văn hóa còn nhỏ giọt, tăng trưởng chậm, tình trạng tổng số đầu tư sự nghiệp văn hóa khá ít, xây dựng cơ sở hạ tầng văn hóa công cộng cơ sở lạc hậu nghiêm trọng so với phát triển xây dựng kinh tế và nhu cầu đời sống văn hóa nhân dân; phát triển văn hóa không cân bằng, chênh lệch giữa thành phố nông thôn, giữa miền núi và thành thị ngày càng rộng, hạ tầng cơ sở thư viện, dịch vụ mạng, năng lực phục vụ văn hóa nông thôn khá lạc hậu, đời sống văn hóa nông dân ở nông thôn nhất là ở vùng nghèo khó rất nghèo nàn; chất lượng sản phẩm văn nghệ tỉ lệ nghịch với số lượng, trình độ sáng tác chưa đáp ứng được nhu cầu hượng thụ văn hóa của nhân dân, trình độ nghệ thuật và trình độ quản lý của văn nghệ chuyên nghiệp cấp quốc gia chưa theo kịp chuẩn quốc tế; thị trường văn hóa còn nhiều bất cập, môi trường văn hóa chưa trong sạch, còn nhiều hoạt động vi phạm pháp luật và vi phạm chuẩn mực văn hóa như buôn lậu, ăn cắp bản quyền...; quản lý văn hóa và cơ chế sản xuất nghệ thuật chưa thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, biện pháp quản lý văn hóa lạc hậu, cơ chế sản xuất nghệ thuật không linh hoạt, kênh huy động vốn chưa rộng thoáng, phát triển công nghiệp văn hóa không đầy đủ, trình độ xã hội hóa, công nghiệp văn hóa khá thấp; hệ thống pháp luật về văn hóa chưa hoàn thiện, còn chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn. Những mâu thuẫn và vấn đề nói trên, nếu không kịp thời tiến hành giải quyết, sẽ tạo thành trở ngại đối với phát triển sự nghiệp văn hóa.
Trước hết, để phồn vinh phát triển sự nghiệp văn hóa, phải đổi mới tư tưởng chỉ đạo phát triển sự nghiệp văn hóa. Phát triển sự nghiệp văn hóa dứt khoát phải gắn liền với ưu tiên hiệu quả xã hội, nguyên tắc của nó không phải là nguyên tắc trao đổi ngang giá, mà là nguyên tắc công bằng, trung thực, nhân văn và tiến bộ. Trong một khoảng thời gian khá dài, chúng ta bỏ rơi đối tượng phục vụ là nhân dân lao động, chạy theo những hạng mục văn hóa kiểu quý tộc hóa như sân golf, các siêu thị văn hóa hàng hiệu... Khi mà nước ta vẫn còn ở giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì sự nghiệp văn hóa phải ưu tiên quyền lợi của đông đảo nhân dân, vừa xây dựng văn hóa bình dân, đại chúng, vừa chú ý dịch vụ văn hóa cấp cao theo tỷ lệ hợp lý thì mới tạo ra sự hưởng thụ văn hóa đa tầng, đa dạng. Cần phải xác định rõ phát triển và phồn vinh sự nghiệp văn hóa là nhiệm vụ quan trọng thứ nhất của công tác văn hóa, có nhiệm vụ từng bước thỏa mãn nhu cầu văn hóa đa dạng của quần chúng nhân dân.
Thứ hai, phồn vinh phát triển sự nghiệp văn hóa, phải kiên trì giữ vững tính hiện đại, mới mẻ của văn hóa. Tính tiên tiến của phát triển văn hóa đòi hỏi phải có thế giới quan và phương pháp luận chính xác. Phải căn cứu vào thực tiễn đất nước để xây dựng chiến lược phát triển hợp lý, hiệu quả. giữ vững phương hướng chính xác của xây dựng văn hóa. Phải xử lý tốt quan hệ của tính tinh hoa và tính phổ cập. Chỉ có xây dựng tính tinh hoa trên cơ sở quần chúng nhân dân tiếp thu rộng rãi thì mới vững chắc đáng tin cậy.
Thứ ba, phát triển sự nghiệp văn hóa đòi hỏi phải theo kịp xu thế phát triển của thời đại. Nội dung quan trọng của phát triển văn hóa chính là giải phóng tư tưởng, theo kịp bước tiến với thời đại, đồng lòng cùng nhân dân, không ngừng sáng tạo những giá trị văn hóa mới. Phát triển văn hóa phải theo kịp thời đại có nghĩa là: một, văn hóa phải tương thích với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hai, phải đáp ứng tốt nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng tăng của nhân dân và yêu cầu nâng cao tố chất đạo đức tư tưởng toàn dân tộc; ba, phải thuận theo quy luật phát triển tự thân của sự nghiệp văn hóa. Trong tình hình hiện nay, đặc biệt phải chú ý nghiên cứu quy luật phát triển văn hóa dưới điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quy luật xung đột và hòa nhập văn hóa trong ngoài nước sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Nhận thức được những quy luật này và có chính sách phát triển phù hợp, văn hóa sẽ giải phóng được các nút thắt để phát triển.
Phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển sự nghiệp văn hóa
Sự nghiệp văn hóa có tính chất công ích và đặc trưng tinh thần, do đó, sự phồn vinh của nó gắn liền với sự điều hành, quản lý của Nhà nước.
Thứ nhất, chính sách kinh tế trong văn hóa và văn hóa trong kinh tế được khởi xướng từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã mở rộng mức độ nâng đỡ thuế đối với sự nghiệp văn hóa. Một là chính quyền các cấp đã có những hành động thiết thực nâng đỡ sự nghiệp văn hóa phát triển, tăng thêm đầu tư cho sự nghiệp văn hóa công ích, trong đó, chú ý sự quan tâm và đầu tư cho thích đáng cho hệ thống thư viện, bảo tàng,...Với đơn vị sự nghiệp văn hóa công ích, nhà nước hỗ trợ tài chính để nâng đỡ; với đơn vị sự nghiệp văn hóa kinh doanh, nhà nước tiến hành nâng đỡ và chỉ dẫn về chính sách. Nhà nước cũng có những đầu tư quan trọng cho các loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Hai là đã có sự đổi mới phương thức đầu tư. Trên cơ sở về tổng thể giữ nguyên đầu tư cho sự nghiệp văn hóa theo sự tăng trưởng của quốc gia, từng bước giảm thiểu tỷ lệ đầu tư cố định, tăng tỷ lệ đầu tư trạng thái động, nâng cao hiệu suất sử dụng vốn. Ba là, từng bước thành lập và hoàn thiện chế độ đặt hàng, thu mua của chính phủ đối với hoạt động văn hóa, xây dựng cơ sở hạ tầng văn hóa. Nhà nước có chính sách nâng đỡ rõ ràng thông qua chế độ đấu thầu và chế độ đánh giá môi giới. Bốn là học tập kinh nghiệm phát triển văn hóa các quốc gia tiên tiến để chỉnh đốn các loại quỹ hiện có, thành lập quỹ phát triển khoa học, nghệ thuật quốc gia, tăng cường tìm kiếm con đường hợp tác, góp vốn, liên doanh và lợi dụng vốn bên ngoài làm văn hóa, thực thi và hoàn thiện chính sách ưu đãi, giảm miễn thuế đối với việc quyên tặng cho sự nghiệp văn hóa, khuyến khích xã hội quyên tặng, thiết thực giải quyết vấn đề tồn tại trong chính sách ưu đãi doanh nghiệp quyên tặng sự nghiệp văn hóa được hưởng thụ ưu đãi thuế.
Thứ hai, căn cứ vào tình hình khác nhau của đơn vị sự nghiệp văn hóa, thực hiện phân loại chỉ đạo. Đối với đơn vị sự nghiệp văn hóa công ích, phải có kế hoạch cung cấp tài chính hợp lý, khống chế chỉ tiêu cán bộ công chức, quản lý chặt chẽ đầu vào cán bộ, khơi thông đầu ra hiệu quả. Đối với đơn vị sự nghiệp văn hóa có thu, phải nâng cao tỷ lệ tự hạch toán, tích cực khai thác thị trường, áp dụng nhiều loại phương thức thực hiện gia tăng giá trị kết hợp tốt hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế. Đối với đơn vị sự nghiệp văn hóa kinh doanh, phải tìm kiếm mọi hình thức tổ chức mô hình quản lý và phương thức kinh doanh có lợi cho sự nghiệp văn hóa phát triển, tự chủ kinh doanh, tự chịu lỗ lãi, không ngừng làm lớn mạnh thực lực cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó phải phát triển nhiều tổ chức môi giới văn hóa và tổ chức liên quan như tổ chức điều hành kinh doanh văn hóa, tổ chức đánh giá tư vấn văn hóa, tổ chức bảo hộ quyền lợi nghệ sĩ, quy phạm phương thức hành vi của tổ chức ngành nghề văn hóa,... Thành lập và kiện toàn chế độ đăng ký đơn vị sự nghiệp văn hóa, căn cứ vào tôn chỉ và phạm vi nghiệp vụ, đơn vị sự nghiệp văn hóa tự chủ triển khai hoạt động sản xuất, kinh doanh, phục vụ, thật sự trở thành pháp nhân sự nghiệp độc lập, cung cấp sản phẩm và phục vụ văn hóa cho toàn xã hội, phát huy tác dụng lớn nhất trong phát triển kinh tế khu vực và sự nghiệp công ích xã hội.
Thứ ba, đi sâu vào đổi mới cơ chế nội bộ đơn vị sự nghiệp văn hóa. Một là, đổi mới chế độ dùng người, thực hiện quản lý nhân sự chuyển biến từ quản lý đầu người sang quản lý vị trí việc làm. Tinh giản cán bộ dôi dư, tăng cường cơ chế cạnh tranh. Hai là, đổi mới chế độ phân phối, mở rộng quyền tự chủ phân phối thu nhập của đơn vị sự nghiệp văn hóa. Kiên trì nguyên tắc ưu tiên hiệu suất, chú ý công bằng, khuyến khích tìm kiếm biện pháp kết hợp giữa phân phối theo lao động và phân phối theo yếu tố sản xuất, thực hiện biện pháp phân phối thu nhập (lương) phù hợp đặc điểm đơn vị sự nghiệp văn hóa, gắn liền phân phối thu nhập với chức trách cương vị, thành tích công tác, đóng góp thực tế. Ba là hoàn thiện chế độ bảo đảm xã hội, tích cực thúc đẩy hòa nhập gắn kết với chế độ bảo đảm xã hội quốc gia. Thử thi hành chế độ đại diện nhân sự, thông qua đại diện nhân sự và phương thức ủy thác quản lý nhân tài, phá bỏ giới hạn đơn vị, thúc đẩy xã hội hóa quản lý nhân tài. Bốn là đi sâu đổi mới thể chế vận hành nội bộ đơn vị sự nghiệp văn hóa. Tinh giản cơ cấu nội bộ đơn vị sự nghiệp văn hóa, từng bước xóa bỏ cấp bậc hành chính rập khuôn, căn cứ vào số lượng tổ chức ngành quản lý biên chế đã xét duyệt tiến hành kiểm soát khống chế số lượng chung. Tích cực lợi dụng mọi hình thức tổ chức, chế độ quản lý phương thức vận hành có lợi cho phát triển sự nghiệp văn hóa, hoàn thiện cơ chế tuyển chọn đề bạt đội ngũ quản lý có tố chất cao, thành lập kiện toàn cơ chế sản xuất nghệ thuật có đủ sức sống, cơ chế huy động vốn, cơ chế kinh doanh tiêu thụ linh hoạt đa dạng, nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng kinh doanh của đơn vị sự nghiệp văn hóa.
Thứ tư, tăng cường xây dựng pháp luật về văn hóa, bảo đảm sự nghiệp văn hóa phát triển phồn vinh. Tích cực thành lập thể chế quản lý, cơ chế phát triển văn hóa thích ứng với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước điều chỉnh và hoàn thiện pháp luật pháp quy hiện hành, không ngừng nâng cao phân tầng và chất lượng lập pháp, thay đổi tình trạng lạc hậu của lập pháp văn hóa; tiếp tục coi thị trường văn hóa là trọng điểm của chấp pháp hành chính, có chế tài hiệu quả với những hoạt động phi pháp trong lĩnh vực văn hóa, tăng cường giám sát chấp pháp hành chính, nâng cao trình độ hành chính theo pháp luật; tăng cường công tác phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật toàn xã hội nhất là cán bộ quản lý hành chính văn hóa, cán bộ kinh doanh văn hóa, nâng cao tính tự giác hành chính theo pháp luật, kinh doanh đúng pháp luật; tăng cường xây dựng tư tưởng và xây dựng nghiệp vụ, đào tạo huấn luyện đội ngũ cán bộ pháp chế văn hóa tố chất cao.
Thứ năm, bảo hộ giữ gìn tài nguyên văn hóa, nuôi dưỡng sức văn hóa. Phồn vinh sự nghiệp văn hóa, bảo vệ giữ gìn các loại tài nguyên văn hóa là nhiệm vụ lâu dài và nặng nề của ngành văn hóa. Trong tình hình mới, chú trọng thích đáng đến các mặt sau đây: trước tiên, phải xây dựng ý thức tài nguyên, giữ gìn tốt các loại tài nguyên văn hóa vì sự phát triển lâu dài. Vì vậy, trong lĩnh vực văn hóa, nhân tài văn hóa và môi trường sinh thái văn hóa đều phải được coi là tài nguyên quan trọng của phát triển văn hóa. Chỉ có giữ gìn bảo vệ tốt, khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên văn hóa mới có thể hình thành sức văn hóa và công nghiệp văn hóa mới có được sự phát triển lâu dài. Hai là phải chú trọng phát triển, điều chỉnh hợp lý các tài nguyên văn hóa, nuôi dưỡng sức văn hóa. Muốn thế, phải làm tốt các công tác cơ sở, làm cho thế mạnh tài nguyên văn hóa chuyển biến thành thế mạnh công nghiệp. Ba là, phải thích ứng tình hình giao lưu văn hóa quốc tế, tiến hành quy phạm thị trường văn hóa, xử lý tốt quan hệ biện chứng của hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế, tạo dựng môi trường thị trường tốt đẹp cho thị trường văn hóa phát triển kéo dài.
Phát triển văn học nghệ thuật, báo chí xuất bản và khoa học xã hội
Sự nghiệp văn hóa coi văn học nghệ thuật, báo chí xuất bản, khoa học xã hội là những bộ phận quan trọng hợp thành của xây dựng văn minh tinh thần.
Một là phải làm cho văn học nghệ thuật có khả năng cung cấp nhiều hơn nữa các sản phẩm đáp ứng tốt nhu cầu tinh thần của nhân dân. Phải có nhiều hơn nữa các sản phẩm tinh thần ưu tú, phát huy tốt sức mạnh của sáng tác và lý luận, phê bình văn học nghệ thuật, sản sinh nhiều tác phẩm sân khấu, điện ảnh, ca nhạc có chất lượng cao, sức lan tỏa lớn. Đồng thời với tăng cường sản xuất tác phẩm hay, coi trọng đặc biệt công tác phổ cập văn hóa, thỏa mãn nhu cầu văn hóa các tầng lớp nhân dân khác nhau, thúc đẩy toàn diện sự nghiệp văn học nghệ thuật phồn vinh.
Hai là, nâng cao chất lượng xuất bản. Chất lượng là sự sống của xuất bản, cần thực hiện chuyển biến từ lấy mở rộng quy mô số lượng làm chính sang nâng cao chất lượng hiệu quả làm chính, xác định được phương hướng phát triển chính xác; nghiêm chỉnh chấp hành phương châm chính sách, pháp luật pháp quy về công tác xuất bản của nhà nước; kiên trì trang bị cho nhân dân lý luận khoa học, ngăn chặn các sản phẩm độc hại, tiêu cực, truyền bá cho độc giả những tri thức lành mạnh, văn minh, chính xác, có ích, phản đối lợi dụng xuất bản đề truyền bá sản phẩm ngụy khoa học, mê tín dị đoan và chạy theo thị hiếu thấp kém, lệch lạc; có ý thức xây dựng bằng được những tác phẩm ưu tú, thực thi chiến lược xuất bản các tác phẩm ưu tú, xây dựng những công trình xuất bản trọng điểm, có ý nghĩa xã hội sâu sắc, chú trọng phát triển khoa học xã hội, đặc biệt là triết học, tăng cường nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các giá trị văn hóa xuất sắc của dân tộc và nhân loại; tăng cường nghiên cứu lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi sâu vào nhận thức tính quy luật về xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Bốn là, tăng cường xây dựng văn hóa công cộng. Hệ thống phục vụ văn hóa công cộng là bảo đảm quan trọng để đông đảo quần chúng nhân dân được hưởng thụ thành quả xây dựng văn hóa. Phải tăng đầu tư, chuyển đổi cơ chế, cải thiện chất lượng phục vụ, quy hoạch khoa học và điều chỉnh cân đối khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn, miền núi và miền xuôi, nâng đỡ hợp lý truyền thông báo chí và tổ chức nghiên cứu khoa học xã hội quan trọng, các hạng mục văn hóa lớn, các viện đoàn nghệ thuật quốc gia, nâng đỡ văn hóa khu vực biên giới và các dân tộc ít người phát triển, từng bước hình thành hệ thống phục vụ văn hóa công cộng hoàn bị phủ khắp xã hội, làm cho toàn thể quần chúng nhân dân đều được hưởng thành quả phát triển văn hóa (1).
_______________
1. Bài viết dựa vào kết quả nghiên cứu của đề tài mã số VIII 1-99-2013.02 Đổi mới thể chế văn hóa ở nước ta hiện nay do Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia ( NAFOSTED) tài trợ
Nguồn : Tạp chí VHNT số 379, tháng 1-2016
Tác giả : MAI HẢI OANH