Hồ Chí Minh đã để lại cho hậu thế một di sản tinh thần mang giá trị văn hóa phổ quát, đó là tư tưởng về đạo đức gắn liền với chủ nghĩa nhân đạo hiện thực. Những quan điểm về đạo đức, tấm gương trong sáng của Người là “một bộ phận không thể tách rời của kho tàng tư tưởng quý báu mà Người đã để lại cho Đảng và nhân dân ta” (1). Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới vấn đề đạo đức cách mạng. Người coi đạo đức là cái gốc của người cán bộ; công việc cách mạng thành hay bại, tốt hay xấu đều do cán bộ mà ra. Vì vậy công việc đào tạo cán bộ có đầy đủ năng lực và phẩm chất là công việc gốc của Đảng. Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” (2).
1. Truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam
Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam đã sớm có ý thức cộng đồng, biết đoàn kết để đấu tranh chống thiên tai, địch họa. Đoàn kết là một tư tưởng chính trị đồng thời là một đạo đức lớn, là tinh thần hòa hợp dân tộc, tính tương thân tương ái, sự độ lượng bao dung và lòng quý trọng nhân cách, tập hợp được đông đảo nhân dân. Đó là lẽ sinh tồn của dân tộc ta từ trước đến nay.
Thấm nhuần lời dạy của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Đại hội lần thứ XII nhấn mạnh: “Tăng cường, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng” (3). Muốn làm được điều đó phải tích cực đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, coi việc chống suy thoái, biến chất, phai nhạt lý tưởng cách mạng là công việc thường xuyên trong Đảng, cần phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, một thứ vi trùng cực độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, độc quyền, quan liêu mệnh lệnh thì mới nâng cao được đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh căn dặn: “Một dân tộc, một Đảng và một con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Chúng ta dễ nhận thấy, toàn bộ hệ thống tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không tách rời khỏi truyền thống đạo đức dân tộc, cũng không lặp lại truyền thống một cách giản đơn; không để một chỗ hở nào cho những tư tưởng lạc hậu có thể khai thác, tiếp nhận cái gì, từ bỏ cái gì, sự mẫn cảm chính trị đặc biệt của Người phân biệt thật chính xác và rõ ràng để hướng vào hệ tư tưởng đạo đức mới.
2. Tinh hoa đạo đức nhân loại
Hồ Chí Minh cho rằng “một tấm gương sống, còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn và tuyên truyền”, “quần chúng chỉ mến người có tư cách đạo đức”. Tư tưởng của Người về vấn đề xây dựng tấm gương đạo đức cách mạng được Đại hội XII nhấn mạnh và cụ thể hóa: “Xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của các bộ, đảng viên” (4). Vậy muốn xây dựng được tấm gương đạo đức cách mạng thì người cán bộ của cách mạng phải rèn luyện bản thân mình: giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục, khiêm tốn thật thà, đoàn kết. Nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ta nhận thấy rõ sự thống nhất, hòa quyện giữa đạo đức và chính trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là tư tưởng chính trị như dân làm gốc, trung với nước hiếu với dân, được nâng lên thành tư tưởng đạo đức. Và tư tưởng đạo đức cũng là phục vụ sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đó cũng là một chủ nghĩa nhân văn hoàn thiện, một nền văn hóa của tương lai. Vì vậy Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cách mạng cho mọi người.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có sự thống nhất giữa đức và tài, nhưng yếu tố đức là quan trọng hàng đầu. Người thường nói vừa “hồng vừa chuyên” chứ không phải vừa “chuyên vừa hồng”. Đức tài chứ không phải là tài đức. Theo Hồ Chí Minh, đức tài đều quan trọng nhưng đức quan trọng hơn, bởi vì tính xấu của một người thường chỉ có hại cho người đó, còn “tính xấu của một đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến đảng, có hại đến dân” (5).
Ngoài ra, trong tư tưởng Hồ Chí Minh đó còn là sự thống nhất giữa nói và làm, lý tưởng và hành động, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường. Hồ Chí Minh đã khai thác thế mạnh vốn có của dân tộc là trọng đạo lý, quen hành động tự giác theo tiếng nói của lương tâm. Bên cạnh việc đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải “giữ gìn kỷ luật tự giác của Đảng”, Người còn yêu cầu họ phải “giữ gìn kỷ luật của chính quyền, và cho rằng “kỷ luật của chính quyền của đoàn thể và của Đảng là một” (6). Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, đảng viên trước hết phải có đạo đức cách mạng, là mẫu mực, là tiêu biểu cho con người mới, làm gương tốt cho quần chúng noi theo.
Thấm nhuần tư tưởng đạo đức và lời dạy của Người về rèn luyện đạo đức mạng, Đại hội XII nhấn mạnh: Lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu” (7). Như vậy muốn thực hiện tốt nhiệm vụ, Đại hội cũng chỉ rõ một số vấn đề về hiện trạng phai nhạt lý tưởng cách mạng, “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng chạy chức, chạy tội, tham nhũng lợi ích nhóm” (8). Tất cả những vấn đề này cũng bắt nguồn từ sự suy thoái về đạo đức về lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên chưa bị đẩy lùi.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là sức mạnh, “người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” (9). Theo Người, làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp vẻ vang nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp lâu dài và gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” (10).
Đảng ta là một đảng chính trị nhưng Hồ Chí Minh lại nói: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” (11). Chính đạo đức trong sáng của Người và của bao chiến sĩ cộng sản “gặp khó khăn gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước… khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần, khí phách, khiêm tốn”, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, không công thần, không liên quan, không kiêu ngạo, không hủ hóa đã làm rung động hàng triệu con tim hướng họ theo con đường cách mạng.
Nghiên cứu di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người có những lời dặn về những chuẩn mực đạo đức cụ thể đối với từng đối tượng: cán bộ, đảng viên, công nhân, nông dân, phụ nữ, trí thức, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng… Những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản mà Người yêu cầu đối với người cán bộ như sau:
Trung với nước, hiếu với dân.
Theo truyền thống đạo đức của ông cha ta, làm người lấy chữ trung, chữ hiếu làm đầu, trung là trung với vua, hiếu là hiếu với cha mẹ. Nhưng quan niệm trung, hiếu của Hồ Chí Minh rất cách mạng, có nội dung mới rộng lớn hơn: trung với nước, hiếu với dân. Người lãnh đạo phải đại trung, đại hiếu, tức là “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, “trung thành tuyệt đối với tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng, với Đảng” (12). Đây là phẩm chất đạo đức bao trùm, trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc” (13).
Với Hồ Chí Minh, hiếu với dân là phải được cụ thể hóa bằng các chủ trương “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Chính sách của Đảng và chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống nhân dân, “làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành”. Người xác định cán bộ các cấp đều là “công bộc của dân” nghĩa là gánh vác việc chung cho dân, “việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh” (14).
Yêu thương con người, sống có tình nghĩa
Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Người viết: “Nhân dân ta từ lâu sống với nhau có tình nghĩa như thế từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được” (15).
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư
Theo Hồ Chí Minh phẩm chất này là nền tảng của đời sống mới, là biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
Cần, kiệm, liêm, chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là bốn điều cần thiết đối với cán bộ, đảng viên; là thước đo trình độ văn minh, tiến bộ của một dân tộc; là “nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc”.
Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì tổ quốc, vì đồng bào, đó chính là nội dung của chủ nghĩa tập thể; thực hành chí công vô tư là phải “quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”.
Tinh thần quốc tế trong sáng, cao cả
Hồ Chí Minh thường nói: “Quan sơn muôn dặm một nhà, bốn phương vô sản đều là anh em”. Trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc, không lúc nào Hồ Chí Minh tách rời giữa nhiệm vụ dân tộc với nghĩa vụ quốc tế.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế chân chính gắn liền với chủ nghĩa yêu nước chân chính. Như thế mới có chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Người đã nêu tấm gương sáng về sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn lòng yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế vô sản; trở thành niềm tin, thành quy tắc đạo đức trong cuộc sống của Người.
Tu dưỡng đạo đức bền bỉ suốt đời
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, “cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã khẳng định sự cần thiết, không thể thiếu của việc rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng đối với mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là đối với những người lao động bởi vì cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ.
Nói đi đôi với làm
Để đánh giá đúng đạo đức cán bộ, Hồ Chí Minh vạch rõ việc gì có lợi cho dân thì cán bộ, đảng viên đều phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải biết hết sức tránh. Phải nêu tấm gương sáng về đạo đức cho quần chúng học tập và noi theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải ghi tạc cái chân lý này trong hành động: dân rất tốt lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ, “dễ mười lần không dân cũng chịu - khó khăn lâu dân liệu cũng xong”.
Xây dựng đạo đức mới
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta, trên lĩnh vực đạo đức thường xuyên diễn ra hai nhiệm vụ xây và chống, xây đi đôi với chống. Xây dựng, củng cố nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng, chống sự ảnh hưởng tiêu cực của những tư tưởng lạc hậu, phản tiến bộ của đạo đức cũ. Trong đó, xây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đó cũng là nhiệm vụ quan trọng trong công tác tư tưởng ở nước ta hiện nay phải coi sự nghiệp giáo dục đạo đức cách mạng với những chuẩn mực như Hồ Chí Minh đã chỉ ra thì đó phải là sự nghiệp của quần chúng, là trách nhiệm của toàn xã hội.
Ngày nay, thực tế đang đặt ra cho công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ những vấn đề quan trọng cần giải quyết. Để từng bước hình thành, củng cố và hoàn thiện đạo đức mới Đại hội XII chỉ rõ: “Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát kiểm soát của tổ chức Đảng giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội và của nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên” (16).
Một là, phải nghiên cứu, khai thác tư tưởng đạo đức trong di sản luân lý Mác - Lênin và tư trưởng Hồ Chí Minh phục vụ cho nhu cầu phát triển đạo đức xã hội.
Hai là, phải tăng cường giáo dục, đổi mới nội dung và hình thức giáo dục đạo đức để xây dựng chủ thể đạo đức đáp ứng yêu cầu đổi mới. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ba là, phải tăng cường sự quản lý, kiểm tra giám sát các cấp, các ngành, các đoàn thể và nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên đi đôi với hoàn thiện hệ thống pháp luật xử lý kịp thời và nghiêm minh những cán bộ thoái hóa, biến chất.
Bốn là, cần phải tiếp tục đổi mới kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị gắn liền với hoàn thiện chức năng nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách.
Muốn làm được điều đó, chúng ta phải xây dựng được con người mới, con người thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Chúng ta làm sao phải khơi dậy trong trái tim mỗi con người Việt Nam một tinh thần vì tổ quốc, hết lòng phụng sự cho tổ quốc, lấy lợi ích dân tộc đặt lên hàng đầu trong việc giải quyết các mối quan hệ trong cuộc sống. Đạo đức là nền tảng, là nguồn gốc của sức mạnh để làm cho dân tộc Việt Nam phát triển bền vững, cường thịnh trong hôm nay và mai sau. Những bài học đạo đức của Hồ Chí Minh là triết lý, là lẽ sống của đạo làm người mà chúng ta cần học tập để vươn lên không ngừng.
______________
1. Trường Chinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh và thời đại, Tạp chí Cộng sản, tháng 6-1980, tr.17.
2, 3, 4, 7, 8, 11, 16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.8, 202, 203, 207, 184, 205, 203.
5, 6, 9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.245, 31, 254.
10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.283.
12, 13. Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.14, 7.
14. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.56.
15. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.283, 284.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 407, tháng 5 - 2018
Tác giả : LÊ THỊ HOA