Trong giai đoạn hiện nay, công nghiệp văn hóa (CNVH) trở thành một ngành công nghiệp phát triển mạnh mẽ, được ví như một ngành công nghiệp mềm, tạo sức mạnh hái ra tiền, thế nhưng vẫn còn khá mới mẻ đối với nước ta. Định hướng phát triển CNVH của Đảng trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII là một mục tiêu quan trọng, cần thiết trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Việc phát huy nguồn lực con người trong phát triển CNVH đòi hỏi cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về chiến lược phát triển văn hóa trong thời kỳ mới, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI của Đảng đã kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới nhận thức về văn hóa. Một trong những nội dung tư tưởng quan trọng lần đầu tiên được đề cập đến trong nghị quyết đó là phát triển CNVH (1). Quan điểm đó vẫn được tiếp tục khẳng định và hiện thực hóa trong quá trình lãnh đạo của Đảng, tại Đại hội Đảng lần thứ XII đã xác định “phát triển CNVH đi đôi với việc xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa” (2). Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng, phản ánh sự phát triển tư duy ngang tầm thời đại của Đảng ta về phát triển văn hóa, phù hợp với quy luật chung của sự phát triển văn hóa và mang đậm nét đặc thù nền văn hóa Việt Nam thời kỳ mới, đồng thời nhận thức ngày càng rõ hơn về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững đất nước.
Theo cách hiểu chung nhất, CNVH là một dạng sản xuất đặc biệt, là sản phẩm văn hóa do con người sáng tạo ra, có chức năng cả về văn hóa và kinh tế. CNVH chính là làm cho văn hóa gắn liền với công nghiệp sản xuất hàng loạt, phân phối các sản phẩm và dịch vụ mang tính chất văn hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng văn hóa của xã hội và được bảo vệ bởi bản quyền.
Phát triển CNVH có vai trò như một sức mạnh mềm để phát triển đất nước và khẳng định vị thế của một quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay, thuật ngữ sức mạnh mềm ngày càng được sử dụng phổ biến và trở nên quen thuộc trong các cộng đồng dân cư. Bản chất sức mạnh mềm có được là từ văn hóa hay đúng hơn văn hóa là một loại vốn để tạo ra sức mạnh mềm. Quốc gia nào có khả năng khai thác và giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa thì đó là người sở hữu sức mạnh mềm. Muốn văn hóa trở thành một sức mạnh mềm của quốc gia, dân tộc nhất định không thể bỏ qua một bộ phận quan trọng là phát triển CNVH. Như vậy, phát triển CNVH có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Phát triển CNVH ở nước ta hiện nay nằm trong sự phát triển chung của toàn xã hội, là thước đo bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam trong xu thế cạnh tranh toàn cầu, cùng nhau phát triển vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Phát triển CNVH có khả năng tác động mạnh mẽ vào đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân, góp phần tạo nên quá trình đa dạng hóa và dân chủ hóa về tri thức cho xã hội. Phát triển CNVH thực sự lớn mạnh là một trong những yếu tố quyết định hình ảnh tương lai của đất nước, văn hóa, con người Việt Nam trong tâm trí của người dân trên thế giới, khẳng định vị thế, thương hiệu của Việt Nam trong những thập niên tới, đồng thời tạo dựng môi trường thân thiện nhằm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế với khu vực và thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, bước vào lĩnh vực hoạt động mới, phổ biến đến toàn xã hội về phát triển CNVH, đòi hỏi phải nắm bắt kịp thời xu thế vận động, phát triển chung của toàn nhân loại và phát triển CNVH một cách quy mô, có chiều sâu, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đảng ta xác định phải từng bước nghiên cứu, vận hành, phát triển CNVH nhằm khai thác, phát huy tiềm năng và các giá trị văn hóa đặc sắc của các vùng miền, các dân tộc khác nhau. Một nội dung hết sức quan trọng đối với phương hướng, nhiệm vụ trên, đó là vấn đề về phát huy nguồn lực con người, đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển CNVH. Với tính cách là một thành tố quan trọng, nguồn lực đặc biệt cho sự phát triển CNVH, nguồn lực con người vừa là chủ thể sáng tạo vừa tiêu dùng các sản phẩm do ngành công nghiệp này tạo ra. Mục đích là phát huy cao độ vai trò nguồn nhân lực trực tiếp để truyền tải, quảng bá những giá trị vật thể và phi vật thể, phản ánh hơi thở, hồn cốt của đất nước và con người Việt Nam, sâu sắc hơn là làm cho các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Qua đó, góp phần xây dựng và hoàn thiện mục tiêu, nhiệm vụ trong xây dựng, bồi dưỡng, giáo dục và phát triển nguồn lực con người cho phát triển CNVH - một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển bền vững đất nước, Đảng ta xác định “xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa” (3).
Thực tế, trong thời gian vừa qua, vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung và trong phát triển CNVH nói riêng đã đem lại hiệu quả đáng khích lệ. Công tác chuẩn hóa đội ngũ cán bộ bước đầu đã phát huy tác dụng, phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn nghiệp vụ được đảm bảo, các thiết chế văn hóa từng bước được hoàn thiện và nâng cao. Cơ chế cho các ngành văn hóa đề ra đã bám sát thực tiễn đời sống văn hóa của đất nước, thu hút, khuyến khích sự sáng tạo văn hóa nghệ thuật của các chủ thể văn hóa, tạo điều kiện gia tăng và đa dạng hóa các sinh hoạt văn hóa, các ngành văn hóa được phát huy tốt. Tuy nhiên, ngành CNVH ở nước ta mới được đánh giá và nhận thức sâu sắc ngang hàng với các ngành công nghiệp khác, do đó, đánh giá về mức độ hạn chế và phát huy vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực này chưa thật sự toàn diện. Song, nhìn tổng quát thì chưa tạo được cơ chế, chính sách có tính đột phá để huy động mọi nguồn lực, trong đó có nguồn lực con người cho phát triển CNVH: “Cơ cấu nguồn nhân lực mất cân đối, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp… nhiều hạn chế yêu kém trong các lĩnh vực chậm được khắc phục” (4). Trong số lao động đã qua đào tạo không phải ai cũng làm đúng ngành nghề chuyên môn, tình trạng làm trái ngành, trái nghề trong lĩnh vực hoạt động văn hóa không phải là cá biệt, tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu sản phẩm của ngành công nghiệp văn hóa nước ngoài thiếu chọn lọc… Chính sách thu hút nhân lực cho ngành chưa đủ mạnh, chính sách thu nhập, trọng dụng, đãi ngộ chưa thực sự thỏa đáng. Do vậy, để phát huy vai trò của nguồn lực con người trong phát triển CNVH cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của nguồn lực con người đối với sự phát triển CNVH
Nhận thức rõ vai trò to lớn của nguồn lực con người, trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng luôn nhấn mạnh đến nguồn lực con nguời, coi đó là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Đúng vậy, trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác của sự phát triển xã hội, con người đóng vai trò nguồn lực trọng yếu nhất, hơn thế, còn là nguồn lực vô tận, có thể khai thác không bao giờ cạn. Trong khi đó, những nguồn lực khác là hữu hạn, nghĩa là có thể bị cạn kiệt và một số trong đó không thể tái tạo được, hơn nữa, chúng cũng chỉ thực sự phát huy giá trị khi được kết hợp với nguồn lực con người. Đặc biệt, trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh như ngày nay, trí tuệ được coi là nguồn tài nguyên vô hạn, đồng thời, lao động trí tuệ của con người có ảnh hưởng quyết định đối với năng suất, chất lượng lao động. Như vậy, trong hệ thống động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững đất nước nói chung và ngành CNVH nói riêng, nguồn lực con người là động lực cơ bản, quan trọng nhất và đóng vai trò quyết định.
Trong phát triển CNVH hiện nay, cần nêu cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể về vai trò to lớn của nguồn lực con người, vừa là lực lượng sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa mang giá trị xã hội cao, vừa là chủ thể tiêu thụ các sản phẩm đó. Do đó, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để mọi người dân nói chung và cán bộ trong ngành nói riêng hiểu được vai trò của CNVH đối với sự phát triển bền vững đất nước. Qua đó, giúp cho họ thấy rõ được trách nhiệm của tổ chức, cá nhân và toàn xã hội đối với việc xây dựng, bồi dưỡng, đào tạo nguồn lực con người cho CNVH. Huy động cả hệ thống chính trị, các bộ ngành, địa phương (nhất là những địa phương có nhiều làng nghề truyền thống, đồ mỹ nghệ, nhiều khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh… có thế mạnh về hoạt động CNVH), tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, tạo môi trường thuận lợi để mọi người không cảm thấy xa lạ với ngành công nghiệp đặc thù này. Nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của nguồn lực con người đối với ngành CNVH, thông qua nhiều hình thức tuyên truyền, quan điểm đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển ngành CNVH với mục đích mọi ngành, mọi hoạt động của ngành “đều phải phục vụ thiết thực sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người” (5). Trong quá trình xây dựng, bồi dưỡng phát triển nguồn lực con người cho CNVH, cần nhận thức sâu sắc, toàn diện, chủ động từng bước phát triển, phát triển bền vững, tránh nóng vội, chủ quan, đốt cháy giai đoạn trong đào tạo, tuyển chọn… vì đây là ngành công nghiệp mới lạ đối với rất nhiều người ở nước ta. Phải thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả quan điểm chủ trương, giải pháp của Đảng, đó là: “phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp… từng bước phát triển công nghệ sinh học, công nghiệp môi trường và công nghiệp văn hóa” (6).
Hai là, phát triển mạnh mẽ giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ
Phát triển CNVH là một ngành công nghiệp đặc thù, cơ cấu của ngành này rất đa dạng, phổ cập trên nhiều lĩnh vực của xã hội như: điện ảnh, âm nhạc, nghệ thuật, báo chí, phát thanh truyền hình, dịch vụ giải trí, mỹ thuật, kiến trúc, thị trường đồ cổ, thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật biểu diễn, kỹ thuật in ấn, thậm chí cả quảng cáo và phầm mềm vi tính… Đòi hỏi cần phải có sự gia tăng về số lượng người lao động trong lĩnh vực văn hóa, tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa và được sản xuất hàng loạt, có giá trị, số lượng tiêu thụ lớn các sản phẩm đó theo cơ chế thị trường. Để các cơ cấu ngành vận hành mang lại hiểu quả cao, cần phải có những con người được đào tạo căn bản, chuyên sâu và biết ứng dụng khoa học công nghệ vào lĩnh vực này, nhất là trong lĩnh vực quản lý văn hóa. Chính vì vậy, phát triển mạnh mẽ giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ cho việc đào tạo nguồn nhân lực, cụ thể hơn là chất lượng lao động và phương diện khai thác, sử dụng nguồn lao động trực tiếp ngành công nghiệp văn hóa là nội dung hết sức cần thiết.
Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp cho ngành công nghiệp này theo hướng toàn diện cả về trình độ, phẩm chất, đạo đức, văn hóa, kỹ thuật, nhất là trình độ quản lý và sử dụng các nguồn lực. Tập trung đào tạo cho các ngành mũi nhọn thuộc về nét đẹp truyền thống bản sắc văn hóa của dân tộc, gắn đào tạo nhân lực với nhu cầu sử dụng hợp lý, hiệu quả lực lượng lao động trong ngành CNVH. Đổi mới đồng bộ từ các khâu tuyển dụng, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng. Tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế đẩy nhanh đào tạo nhân lực, đồng thời cần kết hợp giữa nâng cao trình độ dân trí, hiểu biết về văn hóa và phát triển đồng đều nguồn nhân lực ở các vùng miền, các lĩnh vực, các ngành khác nhau tạo thành vòng khâu quan trọng cho sự phát triển bền vững ngành CNVH.
CNVH là ngành mới ở nước ta, để phát triển nhanh và bền vững đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cả về thể chất và trí tuệ. Muốn vậy, các cấp, các ngành cần huy động tối đa mọi nguồn lực để đầu tư phát triển cơ sở vật chất cho giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đào tạo dưới góc độ chuyên ngành CNVH nói riêng. Cần phải có kế hoạch cụ thể, dài hạn trong xây dựng chiến lược phát triển nguồn lực con người. Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, chuyên gia đầu ngành và có cơ chế ưu đãi, khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn lực con người, nhân tố quan trọng tạo ra giá trị sản phẩm cao của ngành CNVH.
Ba là, hoàn thiện cơ chế, chính sách trong phát triển nguồn nhân lực
Đây là nội dung hết sức quan trọng nhằm tạo ra môi trường, điều kiện thiết yếu để phát huy vai trò của nguồn lực con người đối với sự phát triển bền vững của ngành CNVH. Nhân tố con người chỉ được khai thác và phát huy tối đa khi con người thực sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính mình. Để phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người trong ngành công nghiệp này, nhất thiết phải xây dựng, đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, cơ chế phù hợp phát huy tốt năng lực, sở trường cá nhân, tạo dựng thực hiện tốt cơ chế dân chủ. Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách và phát huy dân chủ không chỉ tạo cơ hội thuận lợi thu hút tất cả mọi người có thể cống hiến năng lực sáng tạo của mình cho xã hội mà còn có ý nghĩa tạo điều kiện cho việc thực hiện cơ chế phản biện xã hội với tinh thần lành mạnh, xây dựng và phát huy trách nhiệm công dân. Tích cực đẩy mạnh liên kết giữa các ngành trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn lực con người trên cơ sở định hướng ngành nghề rõ ràng, chú trọng liên kết các ngành thuộc thế mạnh ở nước ta. Xây dựng cơ chế lựa chọn, thu hút nhân tài ở các cơ sở đào tạo liên quan đến lĩnh vực ngành CNVH, thường xuyên động viên những người giỏi, nghệ nhân, chuyên gia gắn bó với ngành, đảm bảo ngân sách hợp lý cho phát triển nguồn nhân lực văn hóa, nhất là cán bộ văn hóa. Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích theo phương châm, bảo đảm công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển của ngành, đồng thời tạo điều kiện cho tất cả mọi người đều được hưởng lợi từ sự tăng trưởng và phát triển của ngành, bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ liên quan đến phát triển con người, có như vậy mới thực sự thu hút tối đa nguồn lực con người cho sự phát triển bền vững ngành CNVH.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, đối với sự phát triển CNVH ở nước ta, để phát huy nguồn lực con người một cách hợp lý, hiệu quả cần phải có một hệ thống các biện pháp đồng bộ, thiết thực. Thực hiện tốt các giải pháp nêu trên, sẽ góp phần tích cực đẩy nhanh quá trình phát triển của CNVH. Đồng thời, là tiền đề quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội trong xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện lần thứ IX Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.56.
2, 3, 4, 5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.130, 132, 60, 29, 91.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 397, tháng 7 - 2017
Tác giả : ĐẶNG VĂN KHƯƠNG