NGHỀ CHẾ TÁC ĐÁ AN HOẠCH

Làng An Hoạch ven thành phố Thanh Hóa là một trong những làng cổ xưa nhất của vùng đồng bằng sông Mã, và nghề chế tác đá nơi đây là một trong những nghề thủ công có lịch sử lâu đời nhất Việt Nam. Sự xuất hiện của nghề chế tác đá An Hoạch có mối liên hệ mật thiết với truyền thống chế tác đá của cư dân đồng bằng sông Mã từ thời kỳ nguyên thủy, đến TK X bắt đầu định hình rõ nét và phát triển liên tục cho đến ngày nay. Mỗi bước phát triển của nghề này đều gắn liền với những thăng trầm của lịch sử dân tộc. Không những thế, nó còn có sức lan tỏa, tác động đến sự hình thành và phát triển của nhiều làng nghề chế tác đá nổi tiếng ở những vùng miền khác như Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng), Ninh Vân (Ninh Bình).


1. Truyền thống chế tác đá của cư dân đồng bằng sông Mã

Chưa rõ làng có từ bao giờ nhưng cái tên An Hoạch cùng nghề chế tác đá nổi tiếng nơi đây đã được nhắc đến trong An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký (dựng năm 1100) và nhiều sách sử của các triều đại phong kiến. Xa hơn nữa, sự xuất hiện nghề chế tác đá An Hoạch có mối liên hệ biện chứng với truyền thống chế tác đá của cư dân đồng bằng sông Mã.

Thời kỳ đá cũ, tại di tích núi Đọ (xã Thiệu Vận, huyện Thiệu Hóa), di tích núi Nuông, núi Quan Yên (xã Định Công, huyện Yên Định), các nhà khoa học đã phát hiện nhiều hiện vật bằng đá mang dấu vết chế tác của con người: hàng vạn mảnh tước, hạch đá, công cụ chặt thô, công cụ gần hình rìu,... Điều đó khẳng định, cách ngày nay 30-40 vạn năm, người nguyên thủy vùng đồng bằng sông Mã đã chế tác công cụ bằng đá.

Vào thời đại đá mới, cư dân văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn ở vùng núi phía tây Thanh Hóa đã rời khỏi hang động, mái đá xuống miền đồng bằng trước núi, tạo nên nền văn hóa Đa Bút độc đáo. Sưu tập đá của văn hóa Đa Bút, với các loại di vật tiêu biểu từ rìu mài lưỡi, mài toàn thân đến rìu tứ giác, rìu hình thanh được mài nhẵn, các loại cuốc đá to mài nhẵn, cho thấy sự phát triển vượt trội của kỹ thuật chế tác các công cụ đá. Bên cạnh đó, kỹ thuật khoan, cưa và tiện khiến cho ngoài các công cụ phục vụ sản xuất, người ta còn phát hiện rất nhiều các loại đồ trang sức, mà tiêu biểu là các vòng tay bằng đá.

Bước sang thời đại đồ đồng, ở đồng bằng sông Mã, trên cơ sở của một nền nông nghiệp ổn định, hàng loạt nghề thủ công đã phát triển mạnh mẽ để hỗ trợ nông nghiệp. Chứng tích về sự xuất hiện của dạng làng nghề chế tác đá đã xuất hiện rõ nét, đặc biệt ở di tích Đông Khối phía nam núi Voi, xã Đông Cương, thành phố Thanh Hóa ngày nay.

Trên địa phận huyện Đông Sơn ngày nay, người ta còn phát hiện ra những loại trang sức bằng đá tinh xảo (khuyên tai, chuỗi hạt, vòng tay...) bên cạnh các công cụ chế tác đá (bàn mài, mũi khoan...) ở di chỉ Bản Nguyên (xã Đông Lĩnh, huyện Đông Sơn) và những phác vật còn chế tác dang dở ở các di chỉ Bản Nguyên, Đồng Ngầm, Bái Tê, Cồn Cấu, Bái Rắt, Bái Khuýnh. Người ta cũng đã chứng minh được đó là những xưởng chế tác đồ trang sức với quy mô khá lớn. Điều đáng lưu ý là sự kết cụm trên một không gian hẹp, cùng tính chất di chỉ xưởng ở các địa điểm vừa nêu chính là đặc trưng quan trọng cho nghề đá Thanh Hóa thời đó. Qua đây, có thể khẳng định tính chất bản địa và lâu đời của làng nghề chế tác đá An Hoạch, khác với nhiều nghề thủ công khác ở Thanh Hóa như: đúc đồng, gốm, mộc, tằm tang đều được du nhập từ phía Bắc vào (1).

Hiện nay, chưa có tài liệu khoa học để xác minh sự tồn tại những nghề thủ công trong bối cảnh xã hội thời Bắc thuộc, nhưng nghề chạm khắc đá ở An Hoạch chắc chắn vẫn tồn tại liên tục một cách bền bỉ... Tấm bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn ở Đông Sơn TK VII có thể là minh chứng cho sự tồn tại của nghề chế tác đá Thanh Hóa thời kỳ này. Sử sách còn ghi chép lại việc chính quyền đô hộ phương Bắc khai thác đá ở núi An Hoạch: "Đời Tấn (265-420), Phạm Ninh là Thái thú Dự Chương thường sai người lấy đá nơi đây để làm khánh" (2). Chính quyền đô hộ nước ta thời Tùy - Đường cũng thường sai quân dân lấy đá này dùng vào việc xây thành.

2. Sự phát triển của nghề chế tác đá An Hoạch

Chúng tôi thấy rằng nghề này từ khi xuất hiện đều phát triển liên tục, không đứt quãng và có những thời kỳ được thúc đẩy mạnh mẽ, có thể coi như những đợt chấn hưng của truyền thống chế tác đá từ thời nguyên thủy.

Đợt chấn hưng thứ nhất

Sau 10 thế kỷ Bắc thuộc, việc xây dựng hệ thống thiết chế xã hội Đại Việt dựa trên tinh thần tự chủ và hào khí dân tộc dâng cao. Các ngành nghề trực tiếp phục vụ cho quốc kế dân sinh như dệt, đúc đồng, rèn, mộc, làm gạch ngói, đục đá được thúc đẩy.

Đến nay, dấu vết của các công trình kiến trúc hay điêu khắc thời Lý - Trần còn lại quá ít ỏi, nhưng qua một số tư liệu, ta cũng có thể hình dung được việc xây dựng các công trình tôn giáo, phủ đệ, thành quách thời này. Lúc này, Phật giáo phát triển đến mức sử thần Lê Văn Hưu đã phải thốt lên: "Dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa chiền" (3). Việc xây dựng chùa chiền tất nhiên cần phải dùng đến nhiều đá và thợ đá. Đá được sử dụng để kè thành những bức tường chắc chắn trong kiến trúc chùa trườn theo sườn núi, đồng thời là chất liệu tạo hình ở cột, thành bậc, bệ tượng và tượng để tạo thành những tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Lý Thường Kiệt trong suốt thời gian trị nhậm đất Thanh Hóa (1081 - 1101) đã từng tiến hành khai thác đá quý ở núi Nhồi để xây dựng nhiều công trình thành quách, chùa chiền, phủ đệ… An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký cho biết Lý Thường Kiệt nhân một lần đi thăm vùng An Hoạch đã sai Giáp thủ Vũ Thừa Thao xuất lĩnh người hương Cửu Chân dò tìm đá trong 19 năm (4).

Dù đến nay không còn, nhưng tên gọi và quy mô một số chùa thời Lý vẫn được lưu lại trong thư tịch và văn bia: Minh Tịnh (Minh tịnh tự bi văn, niên đại Quảng Hựu 6 (1090) ở Hoằng Hóa), Báo Ân (An Hoạch sơn Báo Ân tự bi, niên đại Hội Phong 9 (1100) ở núi An Hoạch, Thanh Hóa), Sùng Nghiêm Diên Thánh (Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh, niên đại Đại Khánh 9 (1118) ở Hậu Lộc), Hương Nghiêm (Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh, niên đại Thiên Phù Duệ Vũ 5 (1124) ở Thiệu Hóa), Linh Xứng (Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh, niên đại Thiên phù Duệ Vũ 1 (1126). Sang thời Trần, có xuất hiện thêm một số chùa: Hưng Phúc (Quảng Xương), Du Anh (Vĩnh Lộc), Hoa Long (Vĩnh Lộc), Vân Lỗi (Nga Sơn), Cam Lộ (Hậu Lộc)…

Trong các công trình kiến trúc cung điện ở kinh đô Hoa Lư TK X, thành Thăng Long thời Lý - Trần đều có sự góp mặt của đá An Hoạch, mà chất đá không thể nhầm lẫn với nơi khác.

Sự phát triển của nghề chế tác đá thời kỳ này có thể còn có sự đóng góp của các tù binh Chăm mà Lê Hoàn ở TK X và Lý Thái Tông cùng Lý Thường Kiệt ở TK XI mang về đất Thanh Hóa để đào sông, khai khẩn đất hoang, lập ra các trại ấp, biến khu vực núi An Hoạch thành một công xưởng chế tác đá nổi tiếng (5).

Đặc biệt, việc Hồ Quý Ly xây dựng thành Tây Đô đã để lại cho Thanh Hóa một di sản văn hóa thế giới độc nhất vô nhị. Thành này là kiến trúc bằng đá lớn nhất nước ta. Đây là một công trình kỳ vĩ được xây dựng với khối lượng đá rất lớn, nhiều tảng dài đến 7m, cao tới 1,5m, nặng hàng chục tấn, cao đỉnh thành tới 8m. Lối xây thành là sử dụng đòn bẩy, lăn trượt trên bi, ghép, cài mộng, chèn lực để tạo hình và chịu tải trọng một cách tài tình. Nghệ thuật và kỹ thuật được phô diễn ở bốn cổng thành, đặc biệt là thành Nam và Bắc. Vọng lâu trên hai cổng thành này nay không còn, nhưng hàng chục chân tảng hiện có đã nói lên nhiều điều.

Do vị trí quan trọng của nghề chế tác đá An Hoạch mà chất đá quý hiếm và tay nghề người thợ đá nơi đây đã được ghi vào sử sách. Tác phẩm An Nam chí lược của Lê Tắc biên soạn vào TK XIV đã đề cập đến núi An Hoạch "sản xuất đá làm bia, làm đĩa nghiên" (6). Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép lại sự kiện năm Quang Thái thứ 3 (1390), vua Trần "sai thợ đá ở An Hoạch mở cửa hang núi Thiên Kiện và hang núi Khuẩn Mai để lấy tiền của chôn ở đó khi trước" (7).

Đợt chấn hưng thứ hai

Vào thời Lê sơ, việc mở mang kinh thành Thăng Long yêu cầu phải có một khối lượng đá lớn làm mặt nền, tam cấp, thú linh, lăng tẩm... Năm 1490, để đề phòng nạn loạn đảng, Lê Thánh Tông cho xây lại Hoàng Thành mở rộng thêm 8 dặm nữa. Công việc xây dựng trong 8 tháng mới xong. Trong Hoàng Thành, Lê Thánh Tông cũng cho xây thêm cung điện và lập vườn Thượng Lâm để nuôi thú. Năm 1512, Lê Tương Dực giao Vũ Như Tô đứng ra trông nom việc dựng hơn 100 nóc cung điện nguy nga, lại khởi công làm Cửu Trùng Đài...

Khu vực Lam Sơn ở Thanh Hóa là quê hương của Lê Lợi, và cũng là nơi các hào kiệt tụ về dựng cờ khởi nghĩa. Vì vậy, sau thiết lập triều đại, các vua triều Lê sơ đã dựng lên điện Lam Kinh làm tẩm thờ chung, cùng một quần thể lăng mộ các vua và hoàng thái hậu. Năm Bính Tý (1456), vua Lê Nhân Tông đích thân đem các quan về bái yết sơn lăng, "ra lệnh chỉ cho các đại thần bàn định đặt tên hiệu cho các miếu điện ở sơn lăng Lam Sơn. Chánh điện gọi là điện Quang Đức, điện Sùng Hiếu, hậu điện gọi là điện Diễn Khánh. Lại sai quân phủ Thanh Hóa làm ẩm cung thờ Thái hoàng thái phi ở phía Tây điện lăng Lam Sơn" (8). Đây là một kiến trúc mô phỏng điện Tràng An với những nghi thức thiết triều và linh vật đem theo vua về cõi vĩnh hằng. Do vậy, chất liệu đá Nhồi được sử dụng trong 30% kiến trúc Tam Tòa - Thái Miếu, 80% kiến trúc lăng mộ. Chất liệu đá Nhồi được người xưa xem như linh khí của vũ trụ ban cho trần gian, bởi vậy mộ vua, linh vật thiêng ở chùa, dinh thự triều đình độc chiếm vật liệu quý này.

Đợt chấn hưng thứ ba

Sang TK XVI-XVII, khi kinh tế hàng hóa bắt đầu manh nha phát triển, các công trình kiến trúc của cộng đồng làng xã nở rộ, tuy nhiên, cơ bản là những công trình của tập thể. Thế nhưng, bối cảnh lịch sử lúc này đã làm xuất hiện lực lượng quận công, quan tướng triều đình. Khi công trạng đã viên mãn, họ thường quay về quê xây dựng lăng mộ, đền thờ nhằm báo hiếu tổ tiên và cũng là vinh danh cho chính họ. Thời kỳ này, xứ Thanh là vùng đất thang mộc của vua, chúa, nên số lượng các quận công, quan tướng triều đình khá lớn. Thanh Hóa lại là nơi có nghề chế tác đá An Hoạch nổi tiếng, trữ lượng phong phú với nhiều loại đá quý, nên ở đây đã xuất hiện đền thờ, lăng mộ của tư nhân, đến nay được biết đến là có niên đại sớm nhất.

Việc xây cất lăng mộ nở rộ thời kỳ này cho thấy sự quan tâm đặc biệt về đời sống tâm linh của các tầng lớp trên, mong có một sự bền vững và thịnh vượng cho dòng họ cũng như quốc gia. Đây cũng là thời kỳ người thợ đá An Hoạch mở rộng phạm vi hoạt động ra ngoài tỉnh. Chúng tôi đã tìm được 96 bia đá ghi rõ tên thợ đá An Hoạch khắc, phân bố ở các tỉnh Quảng Ninh (1 bia), Bắc Ninh (4 bia), Hải Dương (2 bia), Hưng Yên (7 bia), Thái Bình (7 bia), Vĩnh Phúc (3 bia), Hà Nội (28 bia), Hà Nam (1 bia), Nam Định (1 bia), Ninh Bình (5 bia), Thanh Hóa (33 bia), Nghệ An (3 bia), Hà Tĩnh (1 bia). Trong số 96 bia này có tới 67 bia thời Lê trung hưng. Chắc chắn đây chỉ là số rất ít trong lượng bia đá mà thợ An Hoạch đã khắc.

Điểm đáng lưu ý là chúng tôi đã phát hiện 2 bia niên hiệu Mạc do thợ đá An Hoạch khắc. Bia thứ nhất là Phúc Lâm Hoằng thệ tự bi, niên đại Diên Thành 1 (1578) tại chùa Phúc Lâm, xã Vĩnh Thệ, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây do thợ đá xã An Hoạch huyện Đông Sơn Nguyễn Tiến Chu, Tô Văn Tường, Nguyễn Huỳnh khắc. Bia thứ hai là bia chùa Kim Liên (vô đề), thôn Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây niên đại Diên Thành thứ 2 (1579) do thợ họ Phạm người xã An Hoạch, huyện Đông Sơn khắc. Chúng ta biết rằng Thanh Hóa là nơi phát tích và trung thành với nhà Lê, mà hầu như người dân xứ này không chấp nhận nhà Mạc. Vì vậy, việc thợ đá An Hoạch bỏ ra vùng nhà Mạc để hành nghề chứng tỏ nghệ nhân rất được coi trọng và các chính kiến chính trị đã trở thành thứ yếu đối với thợ nghề truyền thống. Đây cũng chính là hệ quả của phát triển thương mại và sự gia nhập mạnh mẽ của nghề đá An Hoạch vào dòng chảy thương mại đó.

Đợt chấn hưng thứ tư

Thời Nguyễn là giai đoạn nghề đục đá An Hoạch phát triển nhanh về số lượng. Người thợ đá An Hoạch cũng đã có một tổ chức nghề nghiệp tương đối chặt chẽ.

Trong Đại Nam nhất thống chí có nhắc đến dòng họ làm đá ở An Hoạch: "Ấp đó còn có dòng họ Bạt Thạch (làm nghề chạm đá)" (9). Đồng Khánh địa dư chí chỉ nhắc tới 2 nghề thủ công: "Làm thợ thì An Hoạch chuyên nghề đẽo đá, Trà Đông chuyên nghề đúc đồng", "riêng tổng An Hoạch có đá Thanh" (10).

Do nhu cầu xây dựng thành Phú Xuân (Huế), thợ đá núi Nhồi đã được triệu về kinh xây cung đình, lăng tẩm. Ngày 20-1 năm Gia Long thứ 4 (1805) truyền: "Quan trấn Nội trấn Thanh Hóa được rõ: nay phải sức gấp thợ đá, làm các loại đá xây điện Thái Hòa để trở về Kinh" (11). Khi khởi công xây dựng điện Thái Hòa, cửa Đại Môn và Ngọ Môn, các thợ thuyền, phu dịch đến làm việc rất nhiều, trong đó "duy có thợ đá là khó nhọc hơn, từng đã ban thưởng. Đến nay lại cho chiếu xét bọn biền binh là thợ đá và giúp việc làm đá ở Quảng Nam, Thanh Hóa hiện đương làm những việc ấy đều thưởng cho lương, tiền nửa tháng" (12).

Theo Đại Nam thực lục, tháng 7-1831, vua Minh Mạng đã sai bộ Công nghĩ vẽ mẫu tượng đá quan văn, quan võ, lính thị vệ, voi đá, ngựa đá để thợ Quảng Nam, Thanh Hóa chế tạo. Tượng quan văn, quan võ mỗi thứ một đôi; sáu tượng lính thị vệ, đều cao 3 thước 6 tấc; voi đá hai con, mỗi con cao 4 thước 1 tấc; ngựa đá hai con, mỗi con cao 2 thước 7 tấc. Khi chế tạo xong đệ về Kinh, Vua sai đem bày ở lăng Thiên Thụ (tức lăng Gia Long) (13).

Việc vận chuyển đá vào kinh đô Huế để xây dựng các cung điện, lăng tẩm chủ yếu bằng đường biển. Ngày 15-4 năm Minh Mệnh thứ 1, Đốc trấn Thanh Hóa tâu: "Nay đã chọn được 1926 phiến đá móng giao cho viên Phó quản cơ Trung tiệp Thủy quân Nghị Luận hầu nhận chở về kinh" (14). Ngày 22-3 năm Minh Mệnh thứ 3, có 13 chiếc thuyền chở sản vật và các hạng đá của Thanh Hóa về kinh phụng nạp (15). Ngày 24-6 năm Minh Mệnh thứ 6, có 378 lính thủy và bộ cùng 10 chiếc thuyền do triều đình phái đã đến Thanh Hóa để chuyển các thứ đá về kinh phụng nạp (16). Ngày 22-3 năm Minh Mệnh thứ 3, lại có 13 chiếc thuyền chở sản vật và các hạng đá của Thanh Hóa về kinh phụng nạp (17). Ngày 24-6 năm Minh Mệnh thứ 6, có 378 lính thủy và bộ cùng 10 chiếc thuyền do triều đình phái đã đến Thanh Hóa để chuyển các thứ đá về kinh phụng nạp (18). Ngày 15-8 năm Minh Mệnh thứ 6 có "đoàn thuyền 26 chiếc ở Thanh Hóa chở đá về kinh" (19). Theo lời tâu của dinh Quảng Bình ngày 17-3 năm Minh Mệnh thứ 7, "có đoàn thuyền 10 chiếc lĩnh chở tiền, đồ vật công và đá tại trấn Thanh Hóa đã đi qua vùng cửa biển Nhật Lệ" (20). Ngày 15-8 năm Minh Mệnh thứ 7, trấn Thanh Hóa báo cáo triều đình: "Đã mua được đá cây 2687 tấm, đá lát 1076 tấm, tổng chiều dài 1487 thước 7 tấc; đá khối 1267 khối, tổng chiều dài 1424 thước và 6 tấc và 1 tấm đá bia... phân ra trên đoàn thuyền 11 chiếc chuyên đi biển..." (21).

Nghề này phát triển đến nỗi khác với các nghề thủ công khác trong tỉnh và các hộ bẩy đá trong toàn quốc, nhà Nguyễn đã cấp phát tiền lương cho các đội đẽo đá. Đồng thời, nhà Nguyễn cũng quy định riêng một mức thuế mà người thợ ở đây phải đóng góp. Không phải chỉ nộp thuế khai thác đá, thợ đá An Hoạch còn phải trưng tập vào Huế mỗi năm 3 người làm việc ở Ty Vũ khố. Nghề đục đá của thôn Nhuệ không chỉ nổi tiếng ở tỉnh lỵ Thanh Hóa mà còn trong cả nước.

Việc xây dựng nhà thờ Phát Diệm cuối TK XIX liên quan đến nguồn nhân lực và các di vật chạm khắc đá ở Thanh Hóa. Cha Sáu vốn gốc người Nga Sơn Thanh Hóa đã đưa thợ đá vùng núi Nhồi tham gia xây dựng và đưa chiếc sập đá to lớn về đặt ở tòa Phương Đình, đây là chiếc sập đá của vua Hồ ở thành Tây Giai được đưa về đầu TK XIX (22).

Ngày nay, chúng ta có thể nhận thấy ở chân núi Nhồi dấu vết của những công trường chế tác đá với nhiều di vật chìm sâu dưới đất tại các điểm trong bán kính 200m quanh khu di tích lăng Mãn Quận Công, di tích chùa Hang, đình Thượng... Đó là các mảnh bia đang đục dở dang, nhiều đầu tượng Phật, tượng lính chầu, tượng voi, ngựa, bia ký..., là chứng tích của một thời kỳ phát triển hoàng kim của nghề chế tác đá nơi đây.

Thăng trầm nghề chế tác đá An Hoạch từ TK XX đến nay

Đầu TK XX, công nghệ vật liệu xây dựng mới phát triển, nghề mỹ nghệ cũng ít quan tâm đến việc chế tác linh thú bằng đá Nhồi. Người ta tìm đến đá hoa cương ngũ sắc, đá màu, đá mỹ nghệ mềm, dẻo hơn, hay phát triển mỹ nghệ vàng bạc, gốm... Song, nghề chế tác đá An Hoạch vẫn tồn tại và phát triển. Theo Robequain, cuối thời Nguyễn ở thôn Nhuệ, "mặc dù đại bộ phận dân làng đều có ruộng nhưng tất cả các gia đình, khoảng 300 đều làm đá..." (23).

Năm 1922, tại hội chợ Marseille (Pháp), người thợ đá An Hoạch Lê Thọ Thuẫn đã tạc mô hình cầu Hàm Rồng bằng đá đưa đi triển lãm. Vua Khải Định tham gia hội chợ này, được chứng kiến công trình nêu trên, nên khi về nước đã mời cụ Thuẫn vào cung và dùng đá núi Nhồi tạc nhiều công trình: bức rèm hoa, tượng đá, các con giống đá, cột xà, đá tảng và đầu rồng trang trí cho phủ đệ của mình. Cụ Thuẫn được triều đình cho vào hàng quan cửu phẩm, làng gọi là Cửu Thuẫn.

Theo lời kể của các nghệ nhân ở làng Nhồi hiện nay, dòng họ của cụ Lê Thọ Thuẫn là dòng họ kỳ cựu trong công việc chế tác đá. Hậu duệ là cụ Lê Văn Ngũ được cử làm phó chủ nhiệm hợp tác xã chuyên phụ trách nghề đục đá trong thời kỳ xây dựng hợp tác xã bậc thấp. Cụ Ngũ đã tham gia làm chùa Bút Tháp, lăng và bảo tàng Hồ Chí Minh, Lam Kinh, Tân Trào, Trúc lâm thiền viện ở Pháp, mộ Phan Đình Phùng (Hà Tĩnh). Người trong dòng họ hiện nay còn kể về việc cụ Ngũ thực hiện bóc tách tấm bia tạc bài thơ của Lê Lợi trên vách đá núi ở huyện Đà Bắc, để tránh bị nhấn chìm dưới lòng hồ sông Đà thủy điện Hòa Bình.

Ngày nay, nghề chế tác đá An Hoạch vẫn còn được duy trì nhưng phải đứng trước nhiều thách thức. Sự khai thác đá bừa bãi trong một thời gian dài, đặc biệt việc sử dụng chất nổ đã làm cạn kiệt nguồn nguyên liệu quý hiếm. Mặt khác, trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng, nhiều nghề thủ công truyền thống với kiểu tổ chức cũ, tận dụng sự khéo léo của đôi bàn tay lao động nhàn rỗi tỏ ra kém cạnh tranh so với các dây chuyền sản xuất hiện đại. Nhiều sản phẩm đá chủ yếu phục vụ hoạt động nông nghiệp: cối đá, trục lăn, cối xay... không còn là nhu cầu trong thời đại hiện nay. Những kỹ thuật tiên tiến: cưa máy, khoan máy, xẻ đá bằng máy, kỹ thuật mài nhẵn, đánh bóng... là thách thức với cách làm thủ công. Thêm vào đó là tác động của hàng loạt các vấn đề thuộc về quy luật phát triển của khoa học, quy luật thị trường, thị hiếu, thẩm mỹ của người tiêu dùng... khiến nghề chế tác đá An Hoạch dường như bị suy yếu.

Là nơi có nguồn đá quý với trữ lượng dồi dào, lại được điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội thôi thúc nên ở chân núi Nhồi sớm hình thành những công xưởng chế tác đá từ thời nguyên thủy. Do những điều kiện kinh tế, xã hội đặc trưng, nghề chế tác đá An Hoạch được chấn hưng ở thời Lý - Trần, Lê sơ, Lê - Trịnh và Nguyễn. Người thợ đá An Hoạch không chỉ bó hẹp phạm vi hoạt động trong vùng, trong tỉnh mình mà đã đi khắp nơi để hành nghề. Và chắc chắn những sản phẩm họ làm nên đã đóng góp không nhỏ vào dòng chảy lịch sử - văn hóa Việt Nam.

_______________

1, 23. Charles Robequain, Tỉnh Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa, 2012, tr.471.

2, 9. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992, tr.252, 53.

3, 7. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, tr.242, 181.

4. Viện Văn học, Thơ văn Lý - Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997, tr.309.

5. Một số bia ghi danh thợ đá họ Lỗi: Trùng tu Báo Ân tự bi ký niên đại 1585 tại chùa Báo Ân, xã Đông Hưng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (N0 17545); Hậu Phật bi ký niên đại 1706 tại chùa Phúc Lâm, xã Gia Thụy, huyện Gia Lâm, Hà Nội (N0 4228); Văn chỉ tự điền bi niên đại 1859 tại Văn chỉ xã Phù Lưu, tổng Quảng Chiếu (nay là xã Đông Tân), huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (N0 17689/17690);...

 6. Lê Tắc, An Nam chí lược, Viện Đại học Huế - Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, 1961, tr.11.

8. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, tr.381.

10. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Huyên, Philippe Papin, Đồng Khánh địa dư chí, tập 2, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2003, tr.1106.

11, 14. Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập 1, 2010, tr.13, 446, 159.

12. Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 4, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1993, tr.260, 396-397.

13. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 24, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1970, tr.295-296.

15. Đại học Huế - Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập 2, 1962, tr.43.

16, 17, 18, 19, 20, 21. Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước - Đại học Huế - Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và giao lưu văn hóa, Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập 2, 1998, tr.167, 43, 168, 200, 409, 646.

22. Tòa Giám mục Phát Diệm, Lịch sử nhà thờ đá Phát Diệm, Ninh Bình, 1998, tr.23.

 

Nguồn : Tạp chí VHNT số 378, tháng 12-2015

Tác giả : LÊ THỊ THẢO

;