Trong những ngày đầu xuân mới này, chúng ta cùng ôn lại sự kiện 80 năm ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943 - 2023) - cương lĩnh đầu tiên về văn hóa của Đảng ta do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo, mà những giá trị về lý luận và thực tiễn của nó cho đến nay vẫn còn vẹn nguyên tính thời sự và là động lực cơ bản cho phát triển văn hóa trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Triển lãm “Những tài liệu lịch sử của Văn hóa Việt Nam” tại Bảo tàng Louis Finot (Nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia), ngày 9/2/1946 - Ảnh tư liệu Bảo tàng Lịch sử quốc gia
Trong những năm tháng đất nước còn bị đô hộ “một cổ, hai tròng” bởi phát xít Nhật và thực dân Pháp, Đảng ta đã nhìn thấy sức mạnh to lớn của văn hóa, xác định rõ đây là “một trong ba mặt trận”, song hành cùng với kinh tế và chính trị. Đề cương về văn hóa Việt Nam đã chỉ ra sứ mệnh cho những người cộng sản: “Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa”. “Phạm vi vấn đề văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật” (1). Tất nhiên, với ba lĩnh vực như quan niệm lúc bấy giờ, quả là chưa bao quát hết nội hàm rộng lớn của văn hóa như chúng ta quan niệm hiện nay, nhưng đó vẫn là những thành tố căn bản của văn hóa, thể hiện tầm nhìn thời đại của Đảng ta nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng. Như đánh giá của đồng chí Trường Chinh về Đề cương: “...vì trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, Trung ương chưa đủ điều kiện nghiên cứu sâu các vấn đề liên quan đến cách mạng văn hóa Việt Nam. Ví dụ: cách mạng tư tưởng đề ra còn quá sơ sài, vấn đề xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa được đề cập tới… Nhưng Đề cương về văn hóa Việt Nam đã thu tóm được những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong điều kiện lúc đó của cách mạng Việt Nam” (2).
Nhìn lại bối cảnh chính trị, xã hội nước ta lúc đó, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, cùng với Pháp không chỉ tranh giành thuộc địa, mà còn đặt ra những chính sách nô dịch văn hóa - điều đó đã đặt ra những yêu cầu cấp bách cho Đảng ta trên mặt trận văn hóa. Đề cương về văn hóa Việt Nam đã vạch rõ những thủ đoạn thâm độc của thực dân Pháp lúc đó: “Đàn áp các nhà văn hóa cách mạng dân chủ chống phát xít. Ra tài liệu tổ chức các cơ quan và các đoàn thể văn hóa để nhồi sọ. Kiểm duyệt rất ngặt những tài liệu văn hóa. Mua chuộc và hăm dọa các nhà văn hóa. Mật thiết liên lạc với tôn giáo để truyền bá văn hóa trung cổ, văn hóa ngu dân v.v… Tuyên truyền chủ nghĩa đầu hàng và chủ nghĩa ái quốc mù quáng và hẹp hòi (chauvinisme). Làm ra vẻ săn sóc đến trí dục, thể dục, đức dục cho dân” (3). Đối với Nhật, chính sách của chúng là: “Tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đông Á. Gây ra một quan niệm cho người Nhật là cứu tinh của giống da vàng và văn hóa Nhật Bản chiếu rọi những tia sáng văn minh, tiến bộ cho các giống nòi Đại Đông Á v.v… Tìm hết cách phô trương và giới thiệu văn hóa Nhật Bản (triển lãm, diễn thuyết, đặt phòng du lịch, viện văn hóa, trao đổi du học sinh, mời nghệ sĩ Đông Dương sang thăm nước Nhật, mở báo chí tuyên truyền, tổ chức ca kịch, chiếu bóng...). Đàn áp các nhà văn chống Nhật và mua chuộc các nhà văn có tài” (4).
Trong bối cảnh rối ren đó, một số trí thức đã đứng lên tham gia cách mạng, nhưng cũng còn nhiều người hoang mang, bế tắc, bi quan, thậm chí một số kẻ theo giặc làm tay sai, đả phá chủ nghĩa Mác. Chính vì vậy, Đề cương về văn hóa Việt Nam chỉ với gần 1.500 từ, hết sức ngắn gọn, súc tích, nhưng đã đi thẳng vào những vấn đề cốt lõi của mặt trận văn hóa, đáp ứng những yêu cầu cấp bách của cách mạng, như ánh sáng soi đường, giúp những người cộng sản nhận thức sâu sắc và có phương hướng hành động mạnh mẽ; đồng thời, bản đề cương cũng thức tỉnh đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức và nhân dân đứng lên theo cách mạng.
Cũng phải nói rằng, những quan điểm lý luận về cách mạng, văn hóa đã được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đề cập đến trong các bài viết khi Người hoạt động ở nước ngoài, và những vấn đề về đấu tranh tư tưởng, truyền bá lý luận mác xít cũng đã được Đảng ta thúc đẩy trong giai đoạn Mặt trận dân chủ 1936-1939. Đó là những tiền đề, nền móng để vấn đề văn hóa được Đảng ta đặt ra có tính hệ thống, mang tầm vóc chiến lược qua Đề cương về văn hóa Việt Nam. Có đọc lại những trang hồi ức của nhiều văn nghệ sĩ như: Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Đặng Thai Mai, Kim Lân, Hoàng Trung Thông… về giai đoạn này, chúng ta sẽ càng thấy rõ hơn những giá trị thiết thực, sâu sắc của bản Đề cương, đã giúp nhiều văn nghệ sĩ, trí thức thêm vững tin đi theo Đảng (nhà văn Nguyễn Đình Thi: “Với tôi, bản Đề cương đã cho thấy vận mệnh và tương lai của văn hóa ta là gắn liền vận mệnh và tương lai của dân tộc ta, trong cuộc đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, giữa những ngày đen tối dưới sự thống trị của bọn phát xít Pháp - Nhật, lẽ phải là ở phía cách mạng và cách mạng cũng sắp đến.”; nhà thơ Hoàng Trung Thông: “Đọc bản Đề cương về văn hóa Việt Nam, tôi như thấy sống lại với dân tộc của chúng ta”; nhà văn Học Phi: “Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam của Đảng đối với chúng tôi lúc ấy không những là cái kim chỉ nam để dẫn đường cho chúng tôi đi mà còn là cái cẩm nang để gặp khó khăn thì mở ra xem…”(5). Cũng từ đây, cùng với sự ra đời của Hội Văn hóa cứu quốc, đã tập hợp một lớp văn nghệ sĩ cách mạng hết lòng, hết sức phụng sự đất nước và nhân dân.
Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với phép duy vật biện chứng, và duy vật lịch sử, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã xác định vai trò lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn hóa. Ngay trong phần đầu, Đề cương đã khẳng định tầm quan trọng của văn hóa: “Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả” (6). Trong phần IV về Vấn đề cách mạng Việt Nam, Đề cương nêu rõ quan điểm về cách mạng văn hóa: “a) Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội. b) Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo... Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa” (7).
Đề cương về văn hóa Việt Nam cũng đặt ra mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng văn hóa và cách mạng giải phóng dân tộc: “Cách mạng văn hóa ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện phát triển” để từ đó “dựng nên một nền văn hóa mới” (8). Một nền văn hóa mà sau ngày độc lập chưa lâu, trong bối cảnh thực dân Pháp lăm le xâm lược đất nước ta lần thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” (1946).
Đề cương đã chỉ rõ: “Ba nguyên tắc vận động cuộc vận động văn hóa nước Việt Nam trong giai đoạn này:
a) Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập).
b) Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng).
c) Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ) (9).
Đây là ba đặc tính rất căn bản, gắn bó chặt chẽ với nhau của một nền văn hóa cách mạng, mà cho đến nay, đã 80 năm trôi qua, thời gian đã đủ sức kiểm nghiệm tính đúng đắn và tất yếu của các nguyên lý đó.
Đặt trong bối cảnh đất nước bị đô hộ trước năm 1945, thì vấn đề độc lập dân tộc phải được đặt lên hàng đầu. Đất nước có độc lập thì văn hóa mới có điều kiện phát triển, vì vậy, văn hóa cũng phải gắn liền với đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Đặc tính dân tộc thể hiện ở chỗ văn hóa phải khai phóng dân trí, khơi dậy tinh thần quật cường, yêu nước thương nòi, đứng lên giành độc lập, tự do; phục hồi và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; chống tư tưởng sùng ngoại, lai căng. Dưới ánh sáng của Đề cương, các văn nghệ sĩ, trí thức yêu nước đã đứng lên, góp sức vào công cuộc giải phóng dân tộc, đập tan chính sách nô dịch văn hóa của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Nhiều tác phẩm bám sát hơi thở dân tộc ra đời trong khoảng thời gian này như: công trình lý luận Văn học khái luận của Đặng Thai Mai; các ca khúc cách mạng của Đỗ Nhuận: Du kích ca, Côn Đảo…; các vở kịch: An Tư công chúa, Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng… Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã giành thắng lợi với cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 long trời lở đất, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Kể từ đây, nền văn hóa mới của cách mạng được hình thành, góp phần đắc lực vào công cuộc kiến thiết nước nhà và tiếp tục chống ngoại xâm, thực hiện phương châm: “Kháng chiến hóa văn hóa” và “Văn hóa hóa kháng chiến”.
Các văn nghệ sĩ thế hệ ban đầu trong Hội Văn hóa Cứu quốc - Ảnh tư liệu Bảo tàng Lịch sử quốc gia
Hơn bao giờ hết, văn hóa phải cắm rễ sâu vào thực tiễn cuộc sống, đồng hành cùng với dân tộc thì mới có sức sống lâu bền. Văn hóa hướng đến nhân dân, vì nhân dân, giúp người dân xóa giặc dốt, giặc đói, mở mang dân trí, phát triển văn học, nghệ thuật, tự do tín ngưỡng… là những chính sách mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước ta sau Cách mạng Tháng Tám đã thực hiện nhằm xây dựng một nền văn hóa mới. Văn hóa đã được hướng đến đại chúng. Văn hóa không chỉ xác lập giá trị ở nội dung mà còn là mục tiêu và hình thức chuyển tải. Những thứ nghệ thuật chỉ phục vụ cho sự cai trị của chế độ thực dân và phát xít, hay chui rúc vào tháp ngà, thần bí, xa rời cuộc sống sẽ không đến được với số đông quần chúng, cần phải loại bỏ. Văn học, nghệ thuật phải cất lên tiếng nói của nhân dân, xây dựng đời sống mới lành mạnh, tiến bộ.
Văn hóa bao hàm các giá trị sáng tạo, điều đó cũng đòi hỏi văn hóa phải mang tính khoa học, phù hợp với quy luật khách quan và tiên tiến. Đất nước ta trước năm 1945, những tàn dư phong kiến, hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan tồn tại nặng nề. Chính vì vậy, khi cách mạng thành công, nền văn hóa mới phải xóa bỏ những lạc hậu, phản khoa học, hình thành những giá trị tiến bộ, vì con người, giải phóng con người như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”.
Trên những nguyên tắc đó, Đề cương đã chỉ rõ những việc cần kíp phải làm trước mắt cũng như lâu dài cho những nhà văn hóa mác xít với việc tranh đấu bảo vệ học thuyết, tư tưởng; bảo vệ thuyết duy vật biện chúng và duy vật lịch sử; tranh đấu về tiếng nói, chữ viết; cách thức vận động văn hóa…
Có thể nói, ba nguyên tắc về xây dựng nền văn hóa: dân tộc - khoa học - đại chúng nằm trong chỉnh thể thống nhất, song hành cùng nhau, là những giá trị cốt lõi của nền văn hóa cách mạng Việt Nam trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con ngư ời mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh h ưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống văn hóa tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng” (10). Tại Đại hội Đảng lần thứ lần thứ III năm 1960, Đảng ta nhấn mạnh: “Phát triển nền văn nghệ mới với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc” (11). Văn hóa tiếp tục là mặt trận quan trọng. Đội ngũ văn nghệ sĩ là những chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng - văn hóa trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tất cả vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sau năm 1975, đất nước hòa bình, thống nhất, tinh thần cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam tiếp tục được Đảng ta kế thừa, bổ sung các quan điểm lý luận thêm hoàn chỉnh, phù hợp với công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Hoàn cảnh đất nước giai đoạn hòa bình, thống nhất tất nhiên rất khác so với bối cảnh ra đời của Đề cương, vì vậy có những điểm của Đề cương không còn phù hợp là điều dễ hiểu. Nhưng 3 nguyên tắc mà Đề cương văn hóa Việt Nam đề ra: dân tộc - khoa học - đại chúng vẫn là những giá trị cơ bản, cốt lõi, là động lực cho sự phát triển văn hóa hôm nay dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội VII (1991) của Đảng khẳng định xây dựng “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (12). Nội hàm tiên tiến hàm chứa sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, mang tính khoa học. Bản sắc dân tộc được tiếp tục xác lập, hướng đến cội nguồn, gìn giữ những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc; văn hóa hướng đến nhân dân, vì nhân dân, mang tính đại chúng. Nghị quyết T.Ư 5 khóa VIII (1998) - nghị quyết chuyên đề văn hóa đầu tiên của Đảng - tiếp tục đề ra các mục tiêu xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa được Đảng ta xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.
Sinh hoạt văn nghệ của cơ quan trong kháng chiến chống Pháp - Ảnh tư liệu Bảo tàng Lịch sử quốc gia
Tại Nghị quyết T.Ư 9 khóa XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”; “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học” (13). Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra phương hướng: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước” (14).
Và đặc biệt là tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, kết luận chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chấn hưng văn hóa, với 6 nhóm nhiệm vụ, 4 nhóm giải pháp, đã tạo một khí thế mới, quyết tâm mới, lan tỏa trong toàn Đảng và toàn xã hội, phấn đấu để văn hóa thực sự thấm sâu vào trong đời sống xã hội. Nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và xã hội được nâng cao. Nguồn lực đầu tư cho văn hóa tăng lên. Văn hóa ngày càng đóng góp quan trọng, hiệu quả vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Các di sản văn hóa được tiếp tục chú trọng bảo tồn, phát huy, tính đến nay đã có 32 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO ghi danh; 3.602 di tích được xếp hạng quốc gia, 443 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (15). Các di sản được bảo tồn gắn kết với phát triển du lịch, tạo nguồn thu tái tu bổ (những điểm sáng ở Huế, Hạ Long, Tràng An… là những ví dụ sinh động). Nhiều công trình văn hóa như thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa… đã phát huy công năng. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” lan tỏa sâu rộng, cố kết tinh thần đoàn kết dân tộc và sự hăng say lao động, sáng tạo, thụ hưởng văn hóa của người dân. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường với việc hoàn thiện thể chế, tập trung xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, xây dựng bộ chỉ số văn hóa quốc gia, chuyển tư duy từ làm văn hóa sang quản lý nhà nước về văn hóa…
Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết cho văn hóa trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giao lưu văn hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, như: đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế; môi trường văn hóa còn có những biểu hiện thiếu lành mạnh, lai căng, không ít giá trị truyền thống bị phai nhạt; mặt trái của cơ chế thị trường ngày càng tác động đến đạo đức xã hội: lối sống vị kỷ, cá nhân, thực dụng, đạo đức một bộ phận xã hội xuống cấp, suy thoái; mức hưởng thụ về văn hóa giữa các vùng miền vẫn còn chênh lệch; chế độ chính sách cho nghệ sĩ còn bất cập…
Để giải quyết những vấn đề đặt ra bức thiết của văn hóa hiện nay, chúng ta cần tiếp tục bám sát những quan điểm chỉ đạo, định hướng của Đảng về văn hóa, kết luận của Tổng Bí thư tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, thể chế hóa kịp thời các chủ trương của Đảng, đưa nghị quyết vào cuộc sống, tiếp tục phát huy những giá trị to lớn của Đề cương về văn hóa Việt Nam với nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng, tổng kết thực tiễn, hoàn thiện, bổ sung lý luận, tích cực xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
_________________
1, 3, 4, 6, 7, 8, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.316, 317, 318, 316, 319, 319, 319.
2, 5. Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 - những giá trị tư tưởng - văn hóa, Viện Văn hóa - Thông tin và Văn phòng Bộ Văn hóa Thông tin xuất bản, 2003, tr.29; tr.453, 461, 439.
10. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.40.
11, 12, 13. tulieuvankien.dangcongsan.vn.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.330.
15. Bộ VHTTDL, Báo cáo tổng kết công tác VHTTDL năm 2022, phương hướng nhiệm vụ năm 2023.
Tài liệu tham khảo
1. Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 - những giá trị tư tưởng - văn hóa, Viện Văn hóa - Thông tin và Văn phòng Bộ Văn hóa Thông tin xuất bản, 2003.
HOÀNG HÀ
Nguồn: Tạp chí VHNT số 524, tháng 2-2023