Trong lĩnh vực sáng tác văn học dân gian, hệ thống truyền thuyết, cổ tích, giai thoại gắn với chủ đề khởi nghĩa Lam Sơn và người anh hùng dân tộc Lê Lợi luôn thu hút sự quan tâm của nhiều học giả. “Có thể khẳng định rằng, lịch sử văn học dân gian Việt Nam không một đề tài nào được trở nên phong phú như đề tài Lam Sơn trong kho tàng truyền thuyết. Và cũng không có một nhân vật lịch sử nào được đi vào dân gian như Lê Lợi: thấm sâu, bám rễ, chiếm lĩnh cả chiều ngang lẫn chiều dọc của thế giới truyền thuyết Lam Sơn” (1). Với nội dung kết cấu và ý nghĩa biểu tượng lôi cuốn, các sáng tác dân gian về Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam Sơn trên đất xứ Thanh gợi mở nhiều điều, giúp chúng ta nhìn nhận đầy đủ, toàn diện hơn về tư tưởng, tình cảm của quần chúng đối với khởi nghĩa Lam Sơn nói chung, anh hùng dân tộc Lê Lợi nói riêng.
Trong số những nhân vật Lam Sơn, Lê Lợi là một trong những hình ảnh có tính chất biểu tượng và thực tế, kho tàng truyền thuyết gắn với Bình Định Vương chiếm phần lớn trong các sáng tác dân gian về khởi nghĩa Lam Sơn. Về truyền thuyết đi cùng Lê Thái Tổ, các sách Lam Sơn thực lục, Đất Lam Sơn, Truyền thuyết và cổ tích Lam Sơn hay Sáng tác dân gian về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn đã đề cập nhiều. Dựa trên những tư liệu đã có, chúng tôi tạm chia hệ thống truyền thuyết gắn liền với Lê Lợi thành 4 dạng chính: dạng 1: kiểu huyền thoại gắn với các lời nguyện thiêng, phó thác thiên mệnh (như trong các chuyện Gươm thần, nhặt ấn trong vườn nhà…); dạng 2: lớp huyền thoại đặc biệt gắn với những người phụ nữ là các bà phi, tỳ nữ, công chúa, những người phụ nữ vô danh (Trịnh Ngọc Lữ, Phạm Ngọc Trần, công chúa Bạch Ngọc, Hoa Nương, Hồng Nương, Thủy Tiên công chúa, bà Am, Hồ Ly phu nhân, mụ hàng dầu...); dạng 3: truyền thuyết về địa danh phản ánh những sự kiện lịch sử cụ thể (Tiến Nông, Quỳ Chữ, Chí Cẩn, Đoán Quyết, Bất Căng, Hữu Lễ - Bái Thượng - Bái Đô, làng Bà, làng Nhân, làng Trò, làng Năng Cát, Chòm Thiu, Chòm Đỏ; làng Túng - dốc Ngán - núi Chan...); dạng 4: chuyện thu phục nhân tâm, quy phục anh hùng, xả thân cứu chúa (Lê Lai, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lưu Nhân Chú, Phạm Cuống, Thái Phú...). Trong 4 dạng kể trên, truyền thuyết về những người phụ nữ gắn với Bình Định Vương và giai thoại tên địa danh do Lê Lợi đặt có mức độ tập trung cao và chủ đạo trong kho tàng truyền thuyết, cổ tích Lam Sơn.
Mộ Vua Lê Thái Tổ ở Lam Kinh - Ảnh: Hà Đình Hùng
Đối với mỗi loại trong hệ thống truyền thuyết này, vai trò của mỗi dạng cũng có sự khác nhau. Xét về mặt thời gian, huyền thoại các lời nguyện thiêng được ra đời chủ yếu trong buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa hoặc có tư cách như một biểu tượng tuyên bố kháng chiến, (truyện nhận Gươm thần, Lời thề Lũng Nhai). Cấu trúc của nó khá tương đồng, gồm chủ thể (Lê Lợi) và các khách thể (người dân chài trên sông Mục, những người hào kiệt, quần thần tập hợp xung quanh ông...). Xuyên suốt lớp truyền thuyết này là âm hưởng về tính thiêng. Lê Lợi vốn không xuất thân dòng dõi quý tộc Trần - Hồ, việc hiệu triệu sức mạnh để kháng chiến chống giặc Minh rất cần một cơ sở. Trong bối cảnh mà các di sản tư tưởng của họ Trần còn ảnh hưởng đáng kể sau cuộc thoán ngôi của nhà Hồ, thì tập hợp nhân tâm với một tù trưởng xuất thân sơn cước có vẻ rất khó khăn. Đây là lý do để giải mã chữ “Thuận Thiên” trên thanh gươm thần mà nhân dân trao cho ông. Hình ảnh thanh gươm tỏa vầng hào quang sáng quắc và hàng loạt sự việc ly kỳ cùng với dòng chữ Hán được bố trí khéo léo dưới chuôi gươm... Những chi tiết này nhằm mục đích tạo dựng hình ảnh con người thiêng được trao gửi, phó thác chân mệnh thiên tử - một môtip rất quen thuộc trong mẫu hình các bậc quân vương.
Khác với những lời nguyện thiêng, truyền thuyết về Lê Lợi gắn với những người phụ nữ xuất hiện muộn hơn, ra đời nhằm ghi dấu quá trình chiến đấu cam go, bị truy kích, tuyệt lương, vây khốn, giữa làn ranh giới mong manh sự sống và cái chết hay chứng kiến những trận đánh có tính bước ngoặt của cuộc chiến. Nội dung các chuyện này cơ bản ngợi ca tấm gương những người phụ nữ, cả lịch sử lẫn vô danh giúp sức cho Bình Định Vương. Đây thực sự là chuỗi truyền thuyết đẹp và lãng mạn nhưng cũng đậm chất lưu trai về người anh hùng. Về hình mẫu những người phụ nữ này có 3 đại diện căn bản: các bà phi là những con người lịch sử; các bà già dân gian vô danh như: bà hàng dầu, bà già ở đền Tép, Hoằng Hóa, ngã ba Si, cánh đồng Thạc... giúp ông che giấu trước mặt quân thù truy kích, thám báo và giúp đỡ nghĩa quân; các vị thần nữ hiển ứng như: thần Hồ Ly. Tất thảy gương mặt đại diện, dù xuất thân ra sao, đến từ thế giới nào thì mẫu số chung đều toát lên vẻ trong sáng, tự nguyện. Chuyện về một bà phi tự nguyện hiến thân trên sông (2), một thần Cáo trắng cứu giúp ông thoát nạn trong rừng (3), đáng kể các môtip mộng thần hiển linh như: chuyện Thủy Tiên công chúa ở Giao Xá (Thọ Xuân) giúp tiêu diệt Liễu Thăng, Ngọc Ban phu nhân báo mộng xin giúp đánh thành Trà Long, Kim Ngọc Bà Vương ở Nga Sơn trợ sức một cuộc thủy chiến, Trinh Bạch công chúa hiển ứng xin tham gia bảo vệ kỳ nghĩa (cờ chiến), chuyện Lê Lợi mộng thấy người tình dân gian (nàng Hoa Nương) qua giấc mơ đêm bày tỏ tâm nguyện xin phù hộ cho cuộc khởi nghĩa thành công...
Nhìn chung, số lượng truyền thuyết này đậm đặc tính nhân văn, pha trộn và hỗn dung nhiều yếu tố lịch sử và huyền thoại, có tác dụng phản ánh hiện thực để ta hiểu hơn về bối cảnh và diễn tiến khởi nghĩa Lam Sơn. Đặc biệt, nó khắc họa nỗi cơ cực mà Bình Định Vương phải trải qua, để thấy được bên cạnh khát vọng sáng tạo của nhân dân nhằm “thiêng hóa”, ông còn có những câu chuyện cảm động về tấm lòng đùm bọc, sự cưu mang che chở của nhân dân. Chuyện về Lê Lợi có cả vầng hào quang thần thoại và tính thiêng, đôi lúc vẫn hiện lên là một hình tượng anh hùng cụ thể, gần gũi, mộc mạc và giản dị: “Lê Lợi không như một tướng thần linh nào trăm trận trăm thắng. Nhưng trong cái thua của Lê Lợi có rất nhiều cái được và những cái được chủ yếu nhất, có tác dụng nhất, chính là sự gan góc chịu đựng, thủy chung và tấm lòng bù trì che chở của nhân dân” (4).
Truyền thuyết về địa danh gắn với Lê Lợi tương đồng thời gian với dạng truyện về những người phụ nữ tập hợp xung quanh ông. Mỗi trận đánh, biến cố đều được ghi lại như cuốn nhật ký hành quân lý thú, hấp dẫn. Sau khi hạ thành Đa Căng (một tên gọi do quân Minh đặt để chế nhạo sức mạnh của quân Lam Sơn), ông đổi tên thành Bất Căng (chỉ khiêm tốn, giản dị), Tổ cá phường, nơi bà lão trên bến rau cho ông một bữa no ngày chạy nạn, cảm kích Lê Lợi đổi tên gọi thành Quỳ Chữ (5), đến làng đón tiếp trọng thể thì gọi: Hữu Lễ, đến nơi khác thấy lão ấu tiến lên chào trước gọi là: làng Bái Thượng, nô nức bái thì gọi: làng Bái Đô (đua nhau bái, gọi chệch âm từ Bái Đua). Làng chăm lo cày cấy gọi là: Tiên Nông (dĩ nông vi tiên); đến một làng nọ thấy trẻ em, người già tổ chức canh phòng cẩn mật, chu đáo bèn đặt tên là : Chí Cẩn (rất cẩn thận), sang một địa phương khác thấy dân gian thể hiện niềm tin vào toàn thắng ắt về ta bằng ý chí và lời nói, được ngài gọi là: Đoán Quyết (đoán trúng). Những địa danh này ngày nay nằm ở các xã Thiệu Phúc, Thiệu Hưng, Thiệu Long của huyện Thiệu Hóa và xã Định Thành, huyện Yên Định. Một lần Lê Lợi hành quân qua bản Mường thấy cảnh diễn trò, đặt tên là: làng Trò (Vân Am, Ngọc Lặc); qua một bản Thái hành quân đói lả, dân làng dâng niêu cơm, trong có nhiều cát bèn gọi là: làng Năng Cát (6). Một địa danh ở xã Ngọc Khê (huyện Ngọc Lặc) khi đang bị quân Minh truy đuổi, không biết tìm đường nào tiện để thoát gọi là: làng Túng (lúng túng), được chỉ nơi vượt qua gọi là: núi Chan (chan chứa hy vọng thoát giặc), đầu dốc mà quân Minh ngỡ Lê Lợi sẽ qua nhằm đón lõng bắt gọi là: “dốc Ngán” (giặc ngao ngán vì bị đánh lạc hướng). Các giai thoại tương tự đều gặp lại trong tên gọi: làng Hương (Thọ Hải, Thọ Xuân), làng Nhân (Thường Xuân), làng Sắt (Ngọc Lặc), chòm Thiu, chòm Đỏ, bãi Lạnh, núi Mục, núi Dầu, mả Ngô, giếng Hộ Quốc, thác Ma Ngao, đền Quốc Mẫu... Có thể thấy, trong số các truyền thuyết, cổ tích và giai thoại dân gian gắn với Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam Sơn, số lượng truyền thuyết về địa danh, nhất là địa danh theo quan niệm dân gian do Lê Thái Tổ trực tiếp đặt tên để lưu giữ các sự kiện chiếm số lượng khá lớn, lên đến 2/3 trong toàn bộ kho tàng sáng tác dân gian về khởi nghĩa Lam Sơn.
Về loại truyền thuyết gắn với chuyện thu phục nhân tâm, quy phục hào kiệt, xả thân cứu chúa tuy chiếm số lượng khiêm tốn nhưng có tính lan tỏa cao. Trong số những truyền thuyết này, chuyện Lê Lai cứu chúa được xem như một biểu trưng ngời sáng, quên mình vì nghĩa, là sự thắng lợi của hai người được chọn (trời chọn Bình Định Vương, Lê Lợi chọn Lê Lai). Chuyện Lê Lai cứu chúa cũng đi vào tâm thức dân gian, trở thành cửa miệng, phần nhiều có yếu tố tín ngưỡng “hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. Các truyền thuyết khác lại gợi sự cảm động như: chuyện Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn đi tìm minh chủ, chuyện Hòn đá Khao, chuyện gia đình Lưu Trung, Lưu Nhân Chú và Phạm Cuống phù Lê Lợi, chuyện kết nạp Lê Văn Linh người nổi tiếng với Bài văn đuổi hổ, hay giai thoại tri ân Tuyên nghĩa hầu Thái Phú (một tướng giỏi quân Minh hàng nghĩa quân bị chết)... đều được xây dựng mộc mạc, nói lên sự hấp dẫn, sức lan tỏa tự nhiên về tính cách của Lê Thái Tổ.
Thông qua hệ thống truyền thuyết gắn với Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam Sơn được lưu truyền và lấy bối cảnh chủ yếu trên đất Thanh, có thể thấy nhìn chung, kho tàng văn học dân gian mang nội dung phản ánh khởi nghĩa Lam Sơn thể hiện tính cách dân gian, dân dã, mộc mạc trong nguyên lý sáng tác. Từ chủ đề, nhân vật, lời thoại cho đến hình ảnh biểu tượng. Tất cả đều gần gũi với đời sống người dân, trong đó người anh hùng dân tộc Lê Lợi hiện lên ở vị trí trung tâm. Ngay ở phương pháp tạo dựng hình ảnh người anh hùng, ngoài một số ít chuyện thiêng liêng (như chuyện ấn, gươm, chuyện âm hồn cứu sống...) còn lại là những truyền thuyết mà ở đó, chủ tướng Lam Sơn rất tình, rất người, chan hòa và thông cảm với đời sống khổ cực của quần chúng, chấp nhận sự sẻ chia, bao bọc của quần chúng. Tổng hòa hai khía cạnh này có thể thấy, vua Lê hiện lên trong truyền thuyết đôi khi thấp thoáng thiêng - tục, yếu tố lịch sử và huyền thoại được hòa quyện, khó được tách biệt rạch ròi.
Hệ thống truyền thuyết cũng cho thấy tính hấp dẫn, sức lan tỏa tự nhiên, lôi cuốn cả về hình dáng, tính cách, xử thế và phong thái của Bình Định Vương. Đủ mọi giới, tuổi, thành phần xuất thân, từ nhân vật lịch sử đến những người vô danh tề tựu xung quanh ông. Ông là hạt nhân hấp thu các vệ tinh cá tính, quán xuyến và gợi cảm hứng cho toàn bộ cuộc khởi nghĩa, là mẫu hình chuẩn mực, một anh hùng xuất hiện kịp thời, đúng lúc để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng như lời Nguyễn Trãi từng nói trong Cáo Bình Ngô: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Các truyền thuyết, giai thoại và chuyện kể về Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Thanh mặc dù không phải là những tài liệu lịch sử. Nó là những sáng tác nghệ thuật về đề tài lịch sử. Tuy nhiên, với tính chất và ý nghĩa của dã sử, nó cũng góp phần bổ sung tư liệu để làm sâu sắc hơn chủ đề lịch sử. Các truyền thuyết này như những tư liệu dân gian, như một dạng nhật ký hành quân về khởi nghĩa Lam Sơn và Bình Định Vương Lê Lợi dưới góc nhìn dân gian hóa (khác với ghi chép sử học trong các pho sử đương thời: Đại Việt sử ký toàn thư, Lam Sơn thực lục...). Nó là lịch sử được tái tạo chứ không đơn thuần được tái hiện. Như lời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Những truyền thuyết dân gian thường có cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân, qua nhiều thế hệ, lý tưởng hóa, gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình, cùng với thơ và mộng” (7). Kho tàng truyền thuyết liên quan chủ đề khởi nghĩa Lam Sơn và người anh hùng dân tộc Lê Lợi vừa khẳng định, ngợi ca tình đồng chí, tình quân dân. Đồng thời phản ánh sự đoàn kết, cộng cảm, đùm bọc trong sợi dây giao thoa văn hóa Việt - Mường – Thái.
____________
1. Vũ Ngọc Khánh, Lê Lợi - con người và sự nghiệp, Nxb Thanh Hóa, 2009, tr.140.
2. Chuyện hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Trần hiến tế thần sông Phổ Hộ trên cửa Triều Khẩu (Hưng Nguyên, Nghệ An) trong trận đánh thành Nghệ An năm 1425, Thanh Hóa chư thần lục, tr.387.
3. Chuyện Hồ Ly phu nhân giúp ông thoát nạn trong một lần chạy giặc trên núi Chí Linh.
4. Vũ Ngọc Khánh, Truyền thuyết và cổ tích Lam Sơn, Nxb Thanh Hóa, 1973, tr.5.
5. Quỳ Chữ nghĩa là Bến Rau Quỳ.
6. Năng Cát: năng là cái niêu đựng cơm theo tiếng Thái.
7. Phạm Văn Đồng, Nhân ngày giỗ Tổ vua Hùng, Báo Nhân Dân, ngày 29-1-1969.
Tác giả: Hà Đình Hùng
Nguồn: Tạp chí VHNT số 418, tháng 4-2019