Người Việt ngày nay chiếm tới 90% dân số cả nước, đóng vai trò chủ đạo trong sự nghiệp phát triển chung của toàn dân tộc. Xuất phát từ vùng trước núi, những bước chân của người Việt đã tiến dần ra biển và song hành cùng biển đến tận ngày nay.
Sống tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng và ven biển suốt từ Bắc chí Nam, cuộc sống gắn bó với biển khơi đã sớm hình thành ở họ ý thức về biển cả. Tuy nhiên, không giống với các cư dân biển khác, văn hóa biển của người Việt mang những đặc trưng riêng với nhứng ứng xử riêng của mình trước biển.
Trong văn hóa biển của người Việt, yếu tố biển xen lẫn yếu tố nông nghiệp - đồng bằng và luôn tồn tại những cặp đôi đối lập, song hành
Cũng như nhiều hiện tượng kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa khác, văn hóa biển của người Việt mang tính hai mặt, vừa đối lập nhau, vừa đan xen nhau. Trong đó, sự đan xen giữa yếu tố văn hóa biển với yếu tố văn hóa nông nghiệp - đồng bằng là đặc trưng có thể coi là lớn nhất, chi phối đến tâm lý lưỡng phân của người Việt trước biển.
Điều dễ thấy ở môi trường sống vật chất của người Việt là sự đa dạng về sinh thái tự nhiên, trong đó yếu tố đồng bằng cùng với việc phát triển của nền kinh tế nông nghiệp lúa nước là yếu tố nền tảng; yếu tố biển với sức cuốn hút mạnh mẽ đã làm nên một bình diện thứ hai - khai thác biển, vốn đã là nguồn sống của họ từ rất lâu đời. Như vậy, chính sự phong phú của điều kiện tự nhiên là nguyên nhân gốc đưa đến sự phát triển đa dạng của các hình thái kinh tế phát huy sức mạnh từ tự nhiên, nuôi sống con người và phát triển cộng đồng.
Mức độ và tính chất của sự đan xen này cũng biến thiên theo không gian và thời gian. Nếu như yếu tố nông nghiệp ở miền Bắc trội hơn thì ở miền Trung, yếu tố biển và kỹ năng đi biển và đánh bắt hải sản lại đậm nét…
Bên cạnh đó, một vấn đề hết sức đặc trưng và độc đáo luôn tồn tại trong văn hóa Việt là những cặp song hành, đối lập: biển - đất liền, biển - núi, biển - rừng, biển - trời, biển - sông. Sự góp mặt của các yếu tố cặp đôi với biển này làm cho văn hóa biển của người Việt có một vẻ riêng, được thể hiện ở khắp các lĩnh vực, kể cả văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần. Sự gắn bó, hòa kết của những yếu tố đối lập, trong đó biển giữ vai trò trung tâm, cho thấy sự gắn bó thiết thân của người Việt với biển. Và điều đó cũng một lần nữa khẳng định tính chất của một nền văn hóa biển không thuần nhất, một sự tồn tại, đan xen của những yếu tố tương phản trong phức thể tự nhiên - văn hóa.
Truyền thống biển trong văn hóa của người Việt là truyền thống biển cận duyên
Khát vọng chinh phục biển cả của nhiều dân tộc có biển khác trên thế giới bộc lộ một cách mạnh mẽ thông qua những hành động mạo hiểm, vượt đại dương như những thủy thủ bắc Âu (Vikings TK VIII-XI), ngang dọc trên sóng nước bắc Đại Tây Dương, phát hiện ra đảo Island (TK IX); Christophoro Colombo sau bốn lần ra đi đã tìm ra châu Mỹ(cuối TK XV); Magellan với cuộc hải du vòng quanh thế giới (TK XVI) lưu danh suốt đời với eo biển mang tên người anh hùng của biển... thì người Việt, từ nhiều cứ liệu khác nhau cho thấy, từ xưa, họ đã có những mối quan hệ với biển, nhưng chỉ dừng lại ở biển cận duyên. Đây là một đặc trưng quan trọng trong văn hóa biển của người Việt.
Biển cận duyên là khái niệm được dùng để phân biệt với biển đại dương. Tương ứng với biển cận duyên là cách gọi quen thuộc ra khơi, vào lộng trong dân gian Việt để chỉ tầm hoạt động khai thác trên biển truyền thống.
Trong những năm gần đây, đã có những bước chuyển mới trong trong việc khai thác hải sản: Người dân Việt đang chuyển từ quai đê lấn biển, ngọt hóa đất bồi để trồng cói, trồng lúa sang lợ hóa đất ven biển để nuôi trồng thủy sản. Dự án đánh bắt xa bờ đang được xây dựng và thực hiện nhằm vượt ra khỏi phạm vi khơi và lộng. Bước đầu tiếp cận với biển đại dương, rất nhiều khó khăn, bất cập đang tồn tại. Khái niệm vươn ra biển lớn trở thành phương châm phát triển không chỉ trong phạm vi kinh tế biển, mà còn được sử dụng rộng rãi trong văn hóa, xã hội, kinh tế chung của đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Xét theo trục không gian, chất biển từ nhạt ở miền Bắc, trở nên đậm hơn ở miền Trung và lại ít đi khi vao Nam Bộ; theo trục thời gian, chất biển ngày càng đậm đặc hơn theo tiến trình lịch sử
Chất biển đã in dấu trong văn hóa Việt từ thời dựng nước. Vị mặn của biển đã thấm đẫm trong các huyền thoại, cũng như sự thật về khảo cổ ở nước ta qua các thời kỳ. Trong các triều đại phong kiến, mức độ mặn mà của con người với biển từng bước thay đổi theo chiều hướng tích cực. Khi người Việt tiến hành công cuộc Nam tiến lần đầu tiên rầm rộ và qui mô nhất dưới thời xung đột Trịnh - Nguyễn, ở vùng đất mới, cùng vớí sự tiếp thu kỹ thuật đi biển và cái nhìn hướng biển của người Chăm, những cuộc giao lưu văn hóa với nước ngoài thông qua con đường buôn bán đường biển đã làm mới diện mạo văn hóa biển của người Việt. Người Việt miền Trung đã gắn bó với biển và có cái nhìn hướng biển tích cực hơn. Tiếp tục di cư vào Nam, từ TK XVIII, ở vùng đất Nam Bộ chằng chịt kênh rạch và mênh mang biển, yếu tố sông nước (sông - biển) làm nên một diện mạo văn hóa đặc thù của cư dân Việt Nam Bộ. TK XX, đặc biệt là sau cách mạng tháng Tám 1945, lịch sử cái nhìn về biển của người Việt bước sang trang mới. Thời gian chưa đủ dài để làm nên những chuyển biến đặc biệt, nhưng những đột phá mới của khoa học kỹ thuật nói chung và quan điểm chính sách của nhà nước ta đã và đang làm thay đổi căn bản diện mạo văn hóa biển với những bước phát triển mới.
Trong thời đại ngày nay, biển ngày càng có vai trò quan trọng, thậm chí có ý nghĩa sống còn đối với dân tộc, quốc gia.
Văn hóa biển của người Việt đã tiếp thu truyền thống biển của các dân tộc khác trong quá trình tiếp xúc và giao lưu
Văn hóa biển của người Việt không nằm ngoài quy luật chung của sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc. Do vậy, cái nhìn hướng biển, độ đậm đặc của hương vị biển trong văn hóa Việt ngày càng cao không chỉ xuất phát từ nguyên nhân nội lực, từ nền tảng truyền thống, mà một phần quan trọng không thể phủ nhận đó là sự tác động của các yếu tố ngoại sinh từ phía các dân cư biển khác trong tiến trình lịch sử. Trong sự giao lưu, tiếp biến văn hóa, văn hóa biển của người Việt đã gặt hái được những giá trị mới, tô đậm thêm truyền thống biển của mình.
Từ thời tiền sử và sơ sử, người Việt chắc chắn đã có tiếp thu ý thức về biển của cư dân Nam đảo. Nhưng mối quan hệ giao lưu rõ nhất là với người Chăm khi người Việt tiến vào miền Trung ở TK XVI và XVII. Người Chăm xưa kia nổi tiếng có cái nhìn hướng biển tích cực, và người Việt đã tiếp thu gần như toàn bộ kỹ thuật đi biển điêu luyện của họ. Ghe bàu là một trong những chứng cứ tiêu biểu cho quá trình tiếp thu đó.
Hoạt động thương mại nhộn nhịp trên biển từ Âu sang Á ở những thế kỷ này cũng đã có những ảnh hưởng khá sâu sắc đến mối quan hệ của người Việt với biển. Việc qua lại buôn bán với tàu nước ngoài: Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Hà Lan và đặc biệt, sự có mặt của các thương nhân Nhật Bản và Trung Quốc ở cảng thị Hội An đóng vai trò quan trọng trong quá trình thay đổi về tư duy, phương thức và mục đích tiếp cận biển của người Việt.
Ảnh hưởng của phương tây trong các khía cạnh quân sự và thương mại ở những thế kỷ sau cũng rất đáng kể. Từ cái gốc văn hóa trọng tĩnh, trọng âm, tiếp thu những nét mới trong văn hóa trọng động và đậm chất dương tính của người phương tây, người Việt ít nhiều đã làm nóng không khí tiếp cận biển của mình.
Trong vài thập kỷ gần đây, biển trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhân loại. Người Việt trong vai trò chủ thể đã và đang gánh vác trọng trách của mình với đất nước, hòa chung với xu thế thế giới: tiến ra biển.
Biểu tượng biển thể hiện tâm hồn dân tộc
Một yếu tố văn hóa khi trở thành biểu tượng là nó đã chứa đựng nhân cách hay tinh thần của dân tộc chủ thể. Biểu tượng biển trong văn hóa Việt phản ánh sâu sắc tâm hồn Việt, trong đó tinh thần nhân văn trong ứng xử giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, biển cả là một biểu hiện bao trùm, tiêu biểu nhất. Đó chính là tình yêu thương con người, tinh thần tương thân, tương ái, hướng tới điều thiện, lên án cái ác, nuôi dưỡng mối giao cảm dân tộc, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, gắn kết cộng đồng trong quan hệ xã hội. Trong quan hệ với biển, con người thể hiện rõ tinh thần tôn trọng, đề cao và bảo vệ. Đây là nét đẹp tâm hồn, văn hóa truyền thống cao quý, làm nên giá trị lớn trong bản sắc văn hóa Việt.
Biển là môi trường để con người sống và lao động, biển cũng là nơi con người gửi gắm tâm tư, tình cảm và khát vọng. Những biểu tượng giản dị, gần gũi và nhân văn chỉ có ở tâm hồn Việt. Biển trở thành triết lý sống, là nơi con người trải nghiệm và hun đúc bản lĩnh Việt, là nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận khi con người và biển có chung những rung động thẩm mỹ sâu kín và tinh tế. Biển và văn hóa biển bộc lộ rõ sức mạnh phi thường của dân tộc, một sức tiếp biến văn hóa linh hoạt khi dân tộc hội nhập cùng khu vực và thế giới.
Người Việt có biển và cũng sở hữu một nền văn hóa biển, nhưng tại sao biển vẫn chưa làm thay đổi cuộc sống con người, làm cho con người - dân tộc trở nên giàu có như một số quốc gia có biển khác? Dĩ nhiên, không phải quốc gia nào có biển cũng đều giàu có, nhưng biết mình, biết người là một thế ứng xử xã hội khôn ngoan, cũng là thế ứng xử khoa học, tiến bộ đối với thiên nhiên. Hiểu người để hiểu mình, là để tự tìm thấy cái được và cái thiếu của chính bản thân mình, để có những bước đi, cách làm đúng đắn và sáng suốt cho sự phát triển. Thực chất của nghiên cứu khoa học chính là tìm thấy cái mạnh, cái thiếu sót trong bản chất của vấn đề để thay đổi thực tế vì quyền lợi của đất nước. Biết phát huy những nét ưu việt của văn hóa truyền thống, làm thay đổi khoảng cách giữa những yếu tố truyền thống và hiện đại là việc làm cần thiết khi chúng ta là chủ nhân của biển và đại dương trong công cuộc vươn ra biển lớn hôm nay.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 315, tháng 9-2010
Tác giả : Nguyễn Thị Hải Lê