Chiều 12-7, Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số đã tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc và phiên họp lần thứ 6 của Ủy ban Quốc gia, Tổ công tác triển khai Đề án 06 của Chính phủ; Sơ kết 6 tháng đầu năm 2023 về chuyển đổi số quốc gia và đề án 06 của Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính - Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số chủ trì Hội nghị.
Hội nghị được tổ chức tại Trụ sở Chính phủ, kết nối trực tuyến tới các bộ, ban, ngành, cơ quan trung ương và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm đánh giá tình hình thực hiện, đề ra nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023.
Cùng tham dự Hội nghị có các đồng chí: Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà; Bộ trưởng Bộ Công an, Đại tướng Tô Lâm - Tổ trưởng Tổ công tác triển khai Đề án 06; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, Tổ phó Tổ công tác Đề án 06; Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng - Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số; lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương; lãnh đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu khai mạc Hội nghị - Ảnh: Cổng TTĐT Chính phủ
Phát biểu khai mạc hội nghị Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đánh giá: Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, đòi hỏi khách quan và được xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng, Nhà nước, đồng thời là là một việc làm mới, khó, nhạy cảm, đòi hỏi phải có nguồn lực, trí tuệ, phải có thời gian và các điều kiện cần thiết khác. Đảng và Nhà nước ta cũng đã chỉ đạo và lãnh đạo và đưa việc chuyển đổi số vào Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Sau Đại hội XIII, Chính phủ và các Bộ, các ngành và đặc biệt là Bộ Công an tiếp tục triển khai cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Về nguyên lý, chúng ta phải có khoa học và công nghệ, có khoa học công nghệ, có trang thiết bị, có nguồn lực tài chính, nguồn lực con người. Nhưng chúng ta phải có chủ trương, phải có chính sách, có kế hoạch, chương trình, dự án, đề án để bố trí con người để làm việc. Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã triển khai rất tích cực.
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Chuyển đổi số là phục vụ cái gì, cuối cùng là phục vụ con người. Trong sự phát triển của đất nước ta, con người xuyên suốt là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, là nguồn lực, động lực cho sự phát triển. Con người sử dụng chuyển đổi số để phục vụ con người, nhưng dữ liệu cũng từ con người, có được các tham số, trên cơ sở đó chúng ta thực hiện các cải cách các thủ tục hành chính, nâng cao môi trường cạnh tranh, nâng cao cạnh tranh quốc gia của chúng ta trong lĩnh vực chuyển đổi số.
Thủ tướng cũng khẳng định: Chúng ta có được một cơ sở dữ liệu dân cư và triển khai rất nhanh. Chúng ta đi sau nhưng có thể nói là về trước, đến giờ này, so với nhiều nước trên thế giới, chúng ta có một cơ sở dữ liệu dân cư tương đối tốt, nhưng để hoàn chỉnh thì chúng ta còn phải phấn đấu. Trên cơ sở dữ liệu dân cư này, chúng ta đã áp dụng, làm cơ sở dữ liệu trung tâm. Cũng trên cơ sở đó thì chúng ta đang triển khai có thể nói là đúng hướng, đúng trọng tâm, trọng điểm.
Khai thác, sử dụng dữ liệu để phục vụ người dân và doanh nghiệp
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Huy Dũng đã báo cáo tóm tắt sơ kết triển khai chuyển đổi số quốc gia 6 tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ giải pháp 6 tháng cuối năm 2023.
Theo báo cáo năm 2022, 100% các bộ, tỉnh đều có chỉ số tăng so với năm 2021, phản ánh một cách tương đối là, trong năm 2022, cả hệ thống chính quyền các cấp đều nỗ lực, nhưng mức độ nỗ lực khác nhau sẽ có kết quả khác nhau. Theo đó, xếp hạng cấp bộ có cung cấp dịch vụ công năm 2022 dẫn đầu là Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ VHTTDL đã tăng lên xếp thứ 7 trên bảng xếp hạng. Xếp hạng chuyển đổi số cấp tỉnh, đứng đầu là TP Đà Nẵng, xếp cuối cùng là tỉnh Bắc Kạn.
9 địa phương dẫn đầu về nhận thức số gồm: Đà Nẵng, Lạng Sơn, Yên Bái, Thanh Hóa, Ninh Bình, Ninh Thuận, Bình Dương, Quảng Ngãi, Lào Cai; Về thể chế số, 14 địa phương dẫn đầu gồm: Đà Nẵng, TP.HCM, Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Quảng Ngãi, Bình Định, Hưng Yên, Long An, Bà Rịa – Vũng Tàu; Về hạ tầng số, 10 địa phương dẫn đầu gồm: TP.HCM, Đà Nẵng, Bà Rịa – Vũng Tàu, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Long, Bình Dương, Hậu Giang; 10 địa phương dẫn đầu về nhân lực số gồm: Đà Nẵng, Hà Nam, Long An, Tiền Giang, Cần Thơ, Điện Biên, Trà Vinh, Lạng Sơn, Bình Dương, Yên Bái.
Tổng kết mô hình chung thành công cho các bộ, ngành, địa phương là sự vào cuộc trực tiếp của người đứng đầu, chuyển đổi số là thay đổi cách làm, người đứng đầu quyết định, chuyển đổi số chú trọng vào người sử dụng, vì vậy chuyển đổi số cần người đứng đầu quan tâm, vào cuộc trực tiếp. Trong nhóm 10 địa phương dẫn đầu về chuyển đổi số cả nước, đặc biệt đều có Ban chỉ đạo Chuyển đổi số các tỉnh và 100% các sở, ngành, huyện, xã đều do người đứng đầu cơ quan đơn vị làm trưởng ban.
Về chỉ số an toàn, an ninh mạng năm 2023, mặc dù tăng trưởng 46% so với năm 2021 nhưng vẫn ở mức dưới điểm trung bình (0,48 điểm). Có 1949/3094 (62,9%) hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước đã được phê duyệt cấp độ an toàn. Chỉ có 285/3094 (9,2%) hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước đã đáp ứng yêu cầu bảo đả an toàn theo cấp độ.
Đánh giá Cổng dịch vụ công trong thời gian khảo sát từ ngày 1 đến 31-3-2023 của 20 bộ, ngành và 63 địa phương, mức độ A (từ 90 đến 100 điểm), mức độ B (80 đến 89), mức độ C (65 đến 79), mức độ D (50 đến 64), mức độ E (dưới 50 điểm). Theo đó, kết quả đánh giá 6 tháng đầu năm 2023 của Khối bộ, ngành có 2 bộ đạt mức A là Bộ Giao thông vận tải và Bộ Quốc phòng, 4 Bộ đạt mức B, 10 Bộ đạt mức C trong đó có Bộ VHTTDL, 4 bộ đạt mức độ E: Y tế, Ngoại giao, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường. Khối tỉnh có 9 tỉnh đạt mức độ A, 43 tỉnh đạt mức B, 10 tỉnh đạt mức C, 1 tỉnh đạt mức D. Trong 11 cổng dịch vụ công đạt mức độ A, có 2/11 cổng sử dụng giải pháp công nghệ của Unitech, 2/11 cổng sử dụng giải pháp công nghệ của Viettel và 7/11 cổng sử dụng giải pháp công nghệ của VNPT.
Báo cáo cũng chỉ ra những tồn tại hạn chế: chậm ban hành Kế hoạch Ủy ban quốc gia năm 2023; chậm triển khai và phổ biến các nền tảng số quốc gia; chậm ban hành định mức, đơn giá ứng dụng Công nghệ thông tin; chậm ban hành hướng chuyên đề dữ liệu của Năm Dữ liệu quốc gia; chậm tổ chức, kiểm tra, giám sát, đôn đốc thường xuyên, liên tục; chậm đề xuất cập nhật nội dung đào tạo về chuyển đổi số trong các chương trình đào tạo cán bộ
Năm 2023 được xác định là năm hành động, tạo lập và khai thác dữ liệu để tạo ra giá trị mới, trọng tâm là số hóa, xây dựng, kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương; tăng cường bảo vệ dữ liệu cá nhân; khai thác và sử dụng dữ liệu để phục vụ ngày càng tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp.
Xây dựng nền hành chính văn minh góp phần phòng chống tội phạm
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Công an Nguyễn Duy Ngọc đã báo cáo tóm tắt tình hình, kết quả triển khai Đề án 06 sáu tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023. Trong 6 tháng đầu năm 2023, công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai Đề án 06 đã được Chính phủ, Thủ tướng, Phó Thủ tướng tập trung chỉ đạo quyết liệt, được thể hiện bằng 3 chỉ thị, 7 nghị quyết, 1 công điện. Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì 2 Hội nghị trực tuyến toàn quốc, ban hành văn bản 452 chỉ đạo tháo gỡ những điểm nghẽn về Đề án 06. Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã chủ trì 7 cuộc họp với các bộ, ngành. Tổ Công tác triển khai Đề án 06 của Chính phủ tiếp tục phát huy vai trò thường trực, đôn đốc, thúc đẩy các nhiệm vụ với quyết tâm chính trị cao, được thể hiện bằng 11 thông báo của Văn phòng Chính phủ và 5 kết luận của đồng chí Tổ trưởng Tổ Công tác hằng tháng với tổng số 175 nhiệm vụ.
100% địa phương đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án 06 năm 2023; 55/63 địa phương đã tham mưu với Tỉnh ủy/Thành ủy ban hành Chỉ thị đẩy mạnh triển khai Đề án 06; Nhiều địa phương có cách làm hay, sáng tạo như Thái Nguyên, Hà Nam, Thừa Thiên Huế, Hà Giang, Thái Bình, Đăk Nông, Gia Lai, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Khánh Hòa, Trà Vinh, Nghệ An, Cà Mau.
Thứ trưởng Bộ Công an Nguyễn Duy Ngọc - Ảnh: Cổng TTĐT Chính phủ
Kết quả thực hiện, 6 tháng đầu năm 2023, có 175 nhiệm vụ thực hiện Đề án 06, gồm 24 nhiệm vụ chung, 124 nhiệm vụ cụ thể, 27 nhiệm vụ của địa phương; đến nay đã hoàn thành 64 nhiệm vụ, chưa hoàn thành 23 nhiệm vụ, thực hiện thường xuyên 23 nhiệm vụ, đang triển khai 64 nhiệm vụ. Nhìn chung việc thực hiện Đề án 06 tiếp tục mang lại hiệu quả thiết thực góp phần thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia đặc biệt trên 3 khía cạnh: Xây dựng nền hành chính văn minh, phát triển kinh tế xã hội và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần phòng chống tội phạm.
Đẩy mạnh thực hiện dịch vụ công trực tuyến, cung cấp 25/25 dịch vụ công theo Đề án 06 và 10/28 dịch vụ công theo Quyết định số 422 trên dịch vụ công quốc gia. Riêng Bộ Công an đã mở rộng cung cấp 227/227 dịch vụ công theo chức năng, nhiệm vụ của ngành. Hiện nay, Cổng Dịch vụ công quốc gia đã cung cấp 4409 dịch vụ công trực tuyến, với hơn 7,77 triệu tài khoản tăng 3,8 lần so với cùng kỳ năm 2022; hơn 17,49 triệu lượt thực hiện các dịch vụ tiện ích, tăng 3 lần so với cùng kỳ năm 2022. Việc thực hiện các dịch vụ công trực tuyến đã mang lại nhiều tiện ích cho người dân và doanh nghiệp, tiết kiệm cho nhà nước 2.505 tỷ đồng.
Tái sử dụng dữ liệu đã được số hóa, tiết kiệm chi phí sao in như: CCCD, thẻ BHYT, giấy khai sinh, giấy đăng ký kết hôn… tiết kiệm chi phí sao in hồ sơ, kết quả giải quyết, hạn chế việc phải kiểm tra xác minh mà sử dụng dữ liệu của các bộ, ngành để xác thực. Cắt giảm dần cán bộ tiếp dân, người dân hạn chế đi lại, không tiếp xúc, không giấy tờ, không dùng tiền mặt, loại bỏ dần tình trạng "tham nhũng vặt".
Các giải pháp ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử để phát triển kinh tế xã hội: Việc đẩy mạnh đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế, khởi tạo từ máy tính tiền đã giúp truy thu được 485 tỷ đồng tiền thuế.
Ứng dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư làm sạch thông tin tín dụng, xác thực thông tin thuê bao giúp các nhà mạng tiết kiệm 143 tỷ đồng. Xác thực, đảm bảo chính xác đối tượng được hưởng an sinh xã hội để thực hiện chi trả với 141,7 tỷ đồng dưới hình thức không dùng tiền mặt.
Ứng dụng tài khoản VNeID mức độ 2 với hành khánh đi tàu bay (chuyến bay nội địa). Xác thực sinh trắc học trên thẻ CCCD tại các cơ sở khám chữa bệnh, giảm quy trình 4 bước xuống còn 2 bước, thời gian trung bình xác thực là 6-13 giây, giúp người dân tiết kiệm thời gian làm thủ tục…
Đã cấp trên 48 triệu tài khoản định danh điện tử cho người dân (vượt chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao tại Chỉ thị 05 trước 10 ngày); hoàn thành cấp CCCD cho 100% công dân đủ điều kiện trên toàn quốc, duy trì dữ liệu dân cư bảo đảm “đúng, đủ, sạch, sống”. Cơ sở dữ liệu về dân cư đã kết nối với 15 bộ, ngành, 1 doanh nghiệp nhà nước (EVN), 3 doanh nghiệp viễn thông và 63 địa phương; góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn, trên các lĩnh vực, đồng thời góp phần phòng ngừa tội phạm vi phạm pháp luật.
Ứng dụng dữ liệu dân cư VNeID, tạo lập tài khoản sẽ giám sát được việc trốn thuế, xác thực thông tin tín dụng khách hàng vay, đảm bảo chính xác danh tính, phòng ngừa tội phạm lừa đảo, hạn chế rủi ro. Phục vụ cho vay tín chấp đối với công dân yếu thế, phòng ngừa tội phạm "tín dụng đen". Xác thực thông tin thuê bao di động, từng bước loại bỏ tình trạng sim rác hoạt động lừa đảo, vu khống, đe dọa, xác thực CCCD gắn chip, đối chiếu khuôn mặt, giải quyết tình trạng thi hộ, tráo người trong thi cử….
Thứ trưởng Nguyễn Duy Ngọc cũng đã nêu ra một số tồn tại, hạn chế, còn 23 nhiệm vụ chưa hoàn thành, trong đó có 8 nhiệm vụ chung, 13 nhiệm vụ cụ thể. Về công tác chỉ đạo, triển khai một số người đứng đầu cấp cơ sở chưa quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; chưa kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện nhiệm vụ theo chức năng của đơn vị, địa phương (như Tây Ninh, Phú Thọ, Bình Thuận); chưa quan tâm, bám sát vào các văn bản hướng dẫn của cơ quan thường trực, vẫn báo cáo những khó khăn, vướng mắc trong khi đã được hướng dân (như Bắc Giang, Lai Châu).
Về hoàn thiện thể chế, nhiều nội dung đề ra còn chậm tiến độ, các bộ, ngành chưa hoàn thành việc cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giấy tờ liên quan đến quản lý dân cư với 808 thủ tục. Nhiệm vụ ban hành hướng dẫn về lưu trữ điện tử dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật chưa hoàn thành, chậm tiến độ 3 tháng theo lộ trình tại Chỉ thị 05.
Về hạ tầng công nghệ thông tin, còn 11 đơn vị chưa triển khai hệ thống, hiện nay chỉ có 8/31 đơn vị đã được kiểm tra đánh giá đảm bảo an ninh, an toàn thông tin (chiếm tỷ lệ 25,1%).
Về dịch vụ công, đối với Cổng dịch vụ công quốc gia có thời điệm hoạt động thiếu ổn định, bị chậm do số lượng người dùng tăng đột biến khi triển khai Đề án 06, đặc biệt trong giai đoạn cuối năm 2022, đầu năm 2023. Cổng dịch vụ công của các bộ, ngành chưa được nâng cấp, đảm bảo hoạt động dịch vụ công trình cấp độ 4 (như Bộ Y tế). Một số địa phương có chỉ số đánh thực hiện thủ tục hành chính thấp (như Tuyên Quang, Thái Bình, Hà Giang, Lạn Sơn). Còn 18/28 dịch vụ công thiết yếu theo Quyết định số 422 chưa hoàn thành cung cấp trên Cổng dịch vụ công quốc gia, một số Bộ, ngành tỷ lệ số hóa còn thấp.
Về dữ liệu, ngoài Bộ Nội vụ đã đôn đốc các bộ, ngành, địa phương đồng bộ dữ liệu về cán bộ, công chức, viên chức, một số cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành triển khai còn chậm (như Y tế, Tài nguyên và Môi trường).
Về nguồn lực triển khai đề án, đến nay, Bộ Tài chính đã nhận được báo cáo của 15 bộ, ngành và 43 địa phương. Riêng Bắc Kạn, Đắk Nông chưa bố trí được kinh phí triển khai Đề án 06 trên địa bàn. Các bộ, ngành, địa phương chưa có đề xuất về cơ chế đặc thù để bố trí kinh phí thực hiện Đề án 06 mà chủ yếu chỉ nêu vướng mắc, kiến nghị hướng dẫn cụ thể về nguồn chi, danh mục chi. Bộ Tài chính cần khẩn trương phối hợp với các bộ, ban, ngành liên quan nghiên cứu, trình cấp có thẩm quyền quyết định về cơ chế đặc thù của đơn vị.
Tổ công tác đã xây dựng phụ lục 8 nhiệm vụ chung và 33 nhiệm vụ cụ thể với lộ trình hoàn thành trong 6 tháng cuối năm 2023, đề nghị các bộ, ngành, địa phương bám sát, xây dựng Kế hoạch, phân công đơn vị thực hiện, báo cáo kết quả định kỳ hàng tuần, tháng về Bộ Công an và Văn phòng Chính phủ để theo dõi, tổng hợp. Trong đó: Tập trng giải quyết các “điểm nghẽn” về Đề án 06 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 452 theo 8 nhóm vấn đề và 21 nhiệm vụ cụ thể; số hóa tạo lập dữ liệu của ngành Tư pháp, Lao động - Thương binh và Xã hội trên nền tảng dữ liệu dân cư để tiết kiệm chi phí; thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 18, ngày 30-5-2023 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ phát triển thương mại điện tử, chống thất thu thuế, đảm bảo an ninh tiền tệ; ứng dụng dữ liệu dân cư, CCCD, định danh điện tử để thúc đẩy chuyển đổi số tại 19 tập đoàn, tổng công ty theo Thông báo kết luận số 240, ngày 23-6-2023 của Thủ tướng Chính phủ; triển khai lý lịch tư pháp, sổ sức khỏe điện tử, số Bảo hiểm xã hội… trên VneID, tạo tiện ích cho người dân, doanh nghiệp.
Bộ Thông tin và Truyền thông: hoàn thiện quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Cập nhật, ban hành Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam (phiên bản 3.0) trong tháng 9-2023; Nghiên cứu, xây dựng mô hình chuẩn về các tiêu chí, kỹ thuật, hạ tầng công nghệ thông tin của 1 địa phương phải thực hiện để các địa phương nghiên cứu, đề xuất kinh phí triển khai.
Hội nghị cũng đã được nghe 6 tham luận của các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp: Bộ Kế hoạch và Đầu tư; TP Quảng Ninh; TP.HCM; Công ty Cổ phần Bóng đèn, phích nước Rạng Đông; Văn phòng Chính phủ; tỉnh Thừa Thiên Huế. Cùng với đó là các phát biểu của Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm và Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng.
Chuyển đổi số thúc đẩy tăng trưởng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Phát biểu kết luận Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, các báo cáo và ý kiến cho thấy đã hoàn thành một số việc: 1- Nâng cao nhận thức chuyển đổi số; 2- Hoàn thiện thể chế; 3- Từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng, nhất là cơ sở dữ liệu; 4- Nguồn lực đầu tư về tài chính, cơ sở vật chất và con người; 5- Tạo ra các dịch vụ công, tiện ích cho người dân và doanh nghiệp, phục vụ sự phát triển của đất nước; 6- Góp phần thúc đẩy tăng trưởng quốc gia, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thủ tướng biểu dương, ghi nhận bước đầu những nỗ lực, cố gắng của các bộ, ngành, địa phương; sự chỉ đạo quyết liệt của các thành viên Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số; vai trò nòng cốt của lực lượng công an nhân dân trong triển khai Đề án 06; sự đồng lòng, ủng hộ, tham gia tích cực của người dân, doanh nghiệp.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Thủ tướng nêu rõ, những kết quả tích cực này mới chỉ là bước đầu và chúng ta vẫn chưa hài lòng, còn nhiều tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc. Nhiều lãnh đạo các ban, bộ, ngành, địa phương chưa coi chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm, chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực cho chuyển đổi số. Nhiều mục tiêu đề ra còn cách xa nhau, chưa đạt được, trong đó các chỉ tiêu có thông tin đánh giá cũng có một số chỉ tiêu khó hoàn thành. Tỷ lệ bộ, ngành, địa phương ban hành Kế hoạch dữ liệu mở mới đạt 18,6%. Tỷ lệ các bộ, ngành cung cấp dịch vụ, chia sẻ dữ liệu cho nền tảng tích hợp mới được 14%... Tốc độ mạng băng rộng cố định, di động vẫn là mức trung bình khá. Vẫn còn khoảng 200 thôn, bản chưa có sóng. Đặc biệt phải xây dựng dư liệu chất lượng phục vụ người dân, liên thông chia sẻ, đồng bộ các cơ sở dữ liệu. Sản phẩm số madein Việt Nam còn chưa chiều, chất lượng chuyển đổi số còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Tội phạm mạng gia tăng, cần có những giải pháp tích cực hơn.
Thủ tướng nhấn mạnh một số nguyên nhân và bài học, mà trước hết là vai trò của người đứng đầu, nếu người đứng đầu vào cuộc chỉ đạo quyết liệt thì ở phía dưới có sự chuyển động mạnh mẽ; thứ hai là phát triển hạ tầng phải đồng bộ, toàn diện, liên thông, nhanh chóng hiện đại hóa hạ tầng số; thứ ba là ý thức tham gia của người dân và doanh nghiệp, chúng ta phải tạo được động lực, cảm hứng để người dân và doanh nghiệp tham gia tích cực hơn vào chuyển đổi số, sử dụng công nghệ số.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu kết luận Hội nghị - Ảnh: Cổng TTĐT Chính phủ
Ưu tiên cho chuyển đổi số
Phát huy kết quả đã đạt được, những bài học kinh nghiệm, đồng thời khắc phục tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc để triển khai thành công Đề án 06, cũng như chuyển đổi số quốc gia, Thủ tướng Phạm Minh Chính đưa ra một số quan điểm chỉ đạo:
Theo đó, phải xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu, đòi hỏi khách quan vì vậy phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, vượt qua rào cản, vượt qua điểm nghẽn, vượt qua tư duy bảo thủ, và phải có đột phá hơn nữa thì nó sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, quốc gia, đất nước. Góp phần phát triển đất nước, góp phần hiện đại hóa, công nghiệp hóa nước ta, thuận tiện cho người dân, doanh nghiệp khi thực hiện các dịch vụ công. Nâng cao nhận thức hơn nữa của các cấp, các ngành. Phải có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên, nguồn lực thì có hạn, thời gian thì không nhiều, nhu cầu thì lại cao.
Thủ tướng nêu rõ tập trung vào 4 ưu tiên gồm: Ưu phát triển dữ liệu - tài nguyên của đất nước, vừa là cấp thiết, vừa là cần thiết, vừa là cấp bách; Ưu tiên phát triển các dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp; Ưu tiên phát triển các nền tảng số; Ưu tiên bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin.
Thủ tướng chỉ rõ: Kinh tế số là động lực quan trọng phát triển kinh tế Việt Nam. Xã hội số là một trong những nền tảng của xã hội Việt Nam. Văn hóa số là một phần quan trọng của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Cùng với đó, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp: triển khai một cách nhân văn, hợp lòng dân và được nhân dân ủng hộ. Lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể, làm mục tiêu, động lực, làm nguồn lực cho sự phát triển. Có tầm nhìn chiến lược và tư duy đột phá, có hành động quyết liệt phù hợp điều kiện thực tiễn.
Huy động mọi nguồn lực, sự tham gia của cả hệ thống chính trị, người dân và cộng đồng doanh nghiệp. Có bài bản, lớp lang, không cầu toàn nhưng cũng không nóng vội, làm đến đâu chắc đến đó, vừa làm vừa rút kinh nghiệm.
Các cơ sở dữ liệu quốc gia là nguồn tài nguyên mới và là nền tảng quan trọng cho chuyển đổi số quốc gia nên phải có tính liên kết, liên thông, chia sẻ cao giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa các cấp chính quyền, giữa công và tư. Việc hình thành Trung tâm dữ liệu quốc gia do Bộ Công an chủ trì xây dựng là một giải pháp quan trọng thúc đẩy hình thành, kết nối, chia sẻ các cơ sở dữ liệu quốc gia trong tương lai.
Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm, đề cao trách nhiệm người đứng đầu, gắn với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực cán bộ thực thi, tăng cường kiểm tra, giám sát trong triển khai Đề án 06 nói riêng và chuyển đổi số quốc gia nói chung.
Đề án 06 là một nhiệm vụ rất là quan trọng, nằm trong tổng thể của chuyển đổi số quốc gia; cần huy động nguồn lực, sự tham gia của cả hệ thống chính trị, người dân và cộng đồng doanh nghiệp. Xây dựng cơ chế theo dõi, giám sát việc triển khai CSDLQG về dân cư. Đẩy mạnh triển khai một số cơ chế thí điểm, thử nghiệm quan trọng để mở rộng trong thời gian tới. Phát huy tinh thần chủ động, đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung.
Chuyển đổi số phục vụ người dân và doanh nghiệp
Thủ tướng cũng chỉ rõ các nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới:
Một là, quyết liệt trong công tác chỉ đạo, điều hành, tạo bước đột phá mạnh mẽ trong thực hiện chuyển đổi số quốc gia và triển khai Đề án 06, với phương châm "chuyển đổi số quốc gia là công việc rất lớn, mang tính chiến lược, nhưng phải bắt đầu bằng những hành động cụ thể, mục tiêu cụ thể, làm việc nào dứt điểm việc đó, không thể chung chung được".
Các đồng chí Bộ trưởng, Trưởng ngành, Bí thư, Chủ tịch UBND các cấp phải chỉ đạo quyết liệt hơn nữa, nỗ lực hơn nữa, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong tổ chức thực hiện.
Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành địa phương sớm triển khai xây dựng hệ thống giám sát, theo dõi, đánh giá công tác chuyển đổi số quốc gia ở cấp quốc gia, cấp bộ, ngành và địa phương.
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ sớm triển khai xây dựng hệ thống giám sát theo dõi, đánh giá, đôn đốc việc triển khai CSDL quốc gia về dân cư. Đồng thời bám sát chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ theo công văn số 452 ngày 3-5-2023 để triển khai tháo gỡ 8 các điểm nghẽn và 21 nhiệm vụ cụ thể, hoàn thành 31 nhóm công việc chưa được triển khai.
Thứ hai, tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách cho chuyển đổi số quốc gia nói chung và Đề án 06 nói riêng với phương châm một văn bản điều chỉnh nhiều văn bản, áp dụng quy trình rút gọn, rõ, dễ làm dễ nhớ, dễ giám sát, dễ kiểm tra. Thể chế phải đi trước một bước để thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia nhanh hơn, bền vững hơn.
Bộ Thông tin và Truyền thông khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản liên quan theo hướng đẩy mạnh sử dụng, phát triển nền tảng định danh điện tử VNeID. Sử dụng định danh điện tử VNeID để tạo lập tài khoản mới đối với thông tin thuê bao di động; cấp chữ ký số gắn với định danh điện tử; sửa đổi Nghị định số 130/2018/NĐ-CP ngày 27/9/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số theo trình tự, thủ tục rút gọn…
Tiếp tục chủ trì, phối hợp với Bộ Công an và các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn hiện Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; trình Nghị định quy định danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia, việc xây dựng, cập nhật, duy trì và khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia, hoàn thành trong tháng 7, tháng 8-2023; cập nhật, ban hành Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam (phiên bản 3.0), hoàn thành trong quý III/2023.
Thủ tướng giao Bộ Công an sớm nghiên cứu, xây dựng và trình Quốc hội ban hành Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân; Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức cấp phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID.
Văn phòng Chính phủ đôn đốc các bộ, ngành hoàn thành thực thi các văn bản, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư và rà soát sửa đổi văn bản, thủ tục hành chính có yêu cầu giấy tờ cư trú, làm cơ sở cho địa phương công bố, công khai và tổ chức thực hiện. Việc sửa đổi cần phải đơn giản hóa giấy tờ, thông tin người dân phải khai nộp, nhưng phải bảo đảm thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong khai thác dữ liệu công dân phù hợp với các quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa quy định, thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh và đời sống người dân.
Thứ ba, tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện dịch vụ công trực tuyến tạo thuận lợi nhất cho người dân, doanh nghiệp, chuyển từ thụ động sang chủ động. Tổ chức triển khai 2 dịch vụ công liên thông Đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ BHYT cho trẻ dưới 6 tuổi và Đăng ký khai tử, xóa đăng ký thường trú, trợ cấp mai táng phí… theo Nghị quyết 97 ngày 8-7-2023. Yêu cầu các bộ, ngành, địa phương thực hiện tái cấu trúc quy trình các thủ tục hành chính. Dịch vụ công đã được tích hợp trên Cổng dịch vụ công quốc gia và hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp Bộ, tỉnh. Tiếp tục đơn giản hóa các quy trình thủ tục giấy tờ công dân theo thẩm quyền và trình cấp có thẩm quyền xem xét quyết định, đảm bảo thực chất, hiệu quả, hoàn thành trong quý III/2023.
Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, kết hợp với cơ sở dữ liệu quốc gia và CSDL chuyên ngành. Các cơ sở dữ liệu phải liên thông với nhau, phải chia sẻ với nhau nhưng phải quản lý làm sau cho chặt chẽ, hiệu quả.
Phấn đấu đến cuối năm 2023 có ít nhất 20 triệu người dân sử dụng nền tảng VNeID với ít nhất 10 ứng dụng, tăng trưởng hằng tháng từ 3-5%. Đẩy mạnh làm giàu thông tin, tích hợp các tiện ích thiết yếu lên ứng dụng VNeID bằng cách cho phép người dân được cập nhật dữ liệu cá nhân lên hệ thống và xác thực (trình độ học vấn, quan hệ họ hàng; giấy phép lái xe, tài khoản ngân hàng, điện nước, viễn thông, công chức, viên chức...).
Sớm nghiên cứu, thí điểm tại một số đô thị loại 3 quy mô dưới 300.000 dân, ít biến động dân cư, có dân trí cao, thu nhập cao hơn bình quân cả nước… để triển khai đồng bộ ứng dụng VNeID từ làm giàu dữ liệu và triển khai ứng dụng quản lý xã hội và tiện ích cho người dân (tố giác tội phạm, phòng, chống cháy nổ, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, khai báo tạm trú, tạm vắng…). Kết nối cho người dân được tiếp cận nhanh tới các cơ quan chức năng như vấn đề mua bán, thanh toán hóa đơn điện tử, học phí, viện phí, di chuyển nội địa…
Bộ Tài chính chú trọng phối hợp với Bộ Công an tập trung triển khai các giải pháp về đồng bộ dữ liệu thuế, sử dụng căn cước công dân, định danh điện tử là mã số thuế và định danh trong các giao dịch điện tử để nâng cao hiệu quả thu thuế, đảm bảo thu dúng, thu đủ. Phấn đấu 100% cơ sở kinh doanh kết nối hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền vào hệ thống dữ liệu của cơ quan thuế, tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm như: kinh doanh ăn uống, nhà hàng, khách sạn, dịch vụ giải trí, siêu thị, trung tâm thương mại…
Thứ năm, đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương nhằm tạo ra những giá trị mới. Cần tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia.
Thứ sáu, đẩy mạnh bảo đảm an ninh, an toàn các hệ thống thông tin, CSDL, bảo vệ dữ liệu cá nhân theo đúng luật pháp.
Thứ bảy, huy động nguồn lực cho chuyển đổi số quốc gia và triển khai Đề án 06; Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính căn cứ nguồn vốn, yêu cầu và thực tế triển khai của các bộ, ngành, địa phương để bố trí nguồn lực phù hợp. Các bộ, các ngành, các địa phương phải chủ động bố trí nguồn lực thực hiện.
Thứ tám, tăng cường hợp tác quốc tế, nghiên cứu tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm các nước trên thế giới về chuyển đổi số, cơ sở dữ liệu, quản lý dân cư, tích hợp với cơ sở dữ liệu lớn;
Thứ chín, đẩy mạnh truyền thông tạo đồng thuận trong xã hội, nâng cao nhận thức của người dân, truyền cảm hứng, tạo động lực cho người dân tham gia vào quá trình chuyển đổi số nhiều hơn, bao trùm và toàn diện hơn, không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình thực hiện chuyển đổi số quốc gia.
Thủ tướng nhấn mạnh, năm 2023 là năm "Tạo lập và khai thác dữ liệu để tạo ra giá trị mới". Chúng ta phải hành động, phải quyết liệt, phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, bố trí nguồn lực cũng như xây dựng cơ chế chính sách có hiệu quả. Chuyển đổi số vừa là xu thế của thời đại, vừa kết hệp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại. Góp phần phát triển đất nước, góp phần tăng trưởng, góp phần xây dựng và phát triển đất nước hùng cường và thịnh vượng, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt là tiện ích cho người dân, đỡ chi phí, phiền hà, đỡ mất thời gian. Vì vậy chúng ta phải quyết tâm làm bằng được.
Các đại biểu tham dự tại điểm cầu Bộ VHTTDL - Ảnh: Thanh Danh
Toàn cảnh điểm cầu Bộ VHTTDL - Ảnh: Thanh Danh
THANH DANH